Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phần 05

06/11/201320:30(Xem: 8006)
Phần 05

Truyện Cổ Phật Giáo

Tập 5
Thích Minh Chiếu
Sưu tập

---o0o---

Phần 05

Bất diệt trong sanh diệt

Bảy bước thăng trầm

Chim cú mèo

Phất Già Sa Vương với pháp vô thượng

Oán thù vay trả



Bất diệt trong sanh diệt

Có một hôm, vua Ba Tư Nặc bạch Phật:

- Bạch Ðức Thế Tôn! Ngày trước khi chưa gặp Ngài, tôi thường nghe các ngoại đạo nói thân này chết rồi mất hẳn. Và như thế gọi là Niết Bàn. Ðến nay tuy gặp Phật, đối với vấn đề ấy tôi vẫn chưa thể giải quyết cách nào cho khỏi phải trái với tâm tánh bất sanh bất diệt?

Phật dạy:

- Nhân giả! Cái thân thể của ông đó có thường còn không tiêu diệt không?

- Bạch Ðức Thế Tôn! Phải tiêu diệt?

Vì thân tôi tuy chưa chết nhưng tôi xét thấy nó thay đổi mãi mãi, như lửa đốt củi thành than, than tiêu ra tro, cho đến tan mất.

- Chính vậy, nhân giả! Nhưng ông già yếu như thế dáng mạo hiện giờ có giống lúc còn nhỏ không?

- Bạch Ðức Thế Tôn! Giống thế nào được? Khi nhỏ tôi tươi trẻ mà nay già cả thì tóc bạc mặt nhăn...

- Nhưng đột nhiên thay đổi như thế chăng?

- Bạch Ðức Thế Tôn! Nó ngấm ngầm thay đổi, tôi không hề biết. Khi hai mươi khác lúc mười tuổi, khi ba mươi lại suy hơn hai mươi, đến bây giờ sáu hai tuổi, ngó lại lúc năm mươi thì lúc ấy cường tráng nhiều. Nhưng đó là kể trong chừng chục năm, chứ thật suy xét kỹ càng thì nó thay đổi trong từng phút, từng giây và rồi đây sẽ điêu tàn.

- Nhân giả! Ông xét thân thể ông biến hóa không ngừng và sẽ tiêu diệt như thế, nhưng ông có biết trong cái thân sanh diệt ấy có cái gì bất sinh bất diệt không?

- Bạch Ðức Thế Tôn! Thật tôi không biết.

- Nhân giả! Ông bắt đầu thấy nước sông Hằng lúc mấy tuổi?

Bạch Ðức Thế Tôn! Khi ba tuổi mẫu thân tôi dắt tôi đi bái yết đền trời Kỳ Bà, bấy giờ đi ngang qua sông Hằng tôi đã trông thấy nước sông ấy.

- Ông vừa nói thân thể ông thay đổi rõ ràng nhất là trong hàng chục năm. Vậy khi ba tuổi ông thấy nước sông Hằng với mười ba tuổi thấy nước sông ấy, hai cái thấy đó có gì khác nhau không?

- Bạch không! Cho đến nay sáu mươi hai tuổi rồi mà sự thấy vẫn cũng như thế.

- Nhân giả! Ông lấy làm lo lắng khi thấy thân thể ông tóc bạc mặt nhăn, khi già khác lúc trẻ. Nhưng cái thấy nước sông Hằng đó có trẻ già thay đổi như thân thể ông không?

- Bạch không! Cái thấy ấy lúc nhỏ cho đến bây giờ đây không sai biệt gì cả.

Phật dạy:

- Nhân giả! Mặt ông tuy nhăn mà tánh thấy (kiến tánh) chưa khi nào nhăn. Hễ cái gì nhăn thì quyết phải biến đổi, còn cái gì không nhăn thì cái ấy quyết định bất biến. Cái gì biến đổi thì phải tiêu diệt, còn cái gì không biến đổi thì vốn bất sinh diệt. Cái đã không sinh diệt thì đâu có bị sinh tử lưu chuyển. Sao ông không tự giác bản tánh bất sinh diệt ấy mà dẫn câu chết rồi mất hẳn của bọn đoạn kiến ngoại đạo để tự nghi hoặc.

Vua Ba Tư Nặc nghe Phật khai thị như thế liền giác ngộ bỏ thân thì thọ thân, chứ không khi nào mất hẳn.

Như một người ngồi trên chiếc đò, đò đi thì thấy là bờ chạy. Cũng như thế, người ta chỉ nhìn mình hoàn toàn với con mắt sanh diệt. Người ta đã tự phủ nhận giá trị của mình vậy.

Ðạo Phật trái lại, lại phát huy cho ta thấy, trong cái thân thể sinh diệt vô thường có cái bản tánh vô thường bất sinh diệt. Ðạo Phật đã phát huy bản tánh ấy bằng cách căn cứ ngay với các giác quan thô cạn chứ không xa xôi đâu khác. Và khi nói đến bản tánh, bất sanh diệt ấy, thì đạo Phật đã dùng vô số danh từ rất cao đẹp.

Thật ra, chúng ta bất lực, tư tưởng hành động bị “Vô minh” chi phối. Là vì chúng ta không tự ngộ bản tánh ấy. Nếu giác ngộ tánh bất diệt trong sanh diệt thì toàn thể sanh diệt là bất diệt vậy.

Và cuộc đời chúng ta sẽ hiện thân của Từ Bi, sẽ rạng ngời ánh Trí Tuệ, nếu chúng ta luôn luôn sống với bản tánh bất diệt trong cuộc đời sanh diệt.

Ba cõi lầm mê tâm tịch tịnh

Một đời sinh tử tánh thường như

Sớm mai thấy nụ hoa hồng nở

Nhẹ gót trần sa mộng tỉnh rồi.

Thích Trí Ðức

Bảy bước thăng trầm^

Một hôm, thanh niên Citta, con trai một nhà luyện voi, đi giữa đường gặp một vị Tỳ Kheo đang khất thực. Nhiều Phật tử đến đảnh lễ đặt vào bát của Tỳ Kheo những thức ăn ngon lành, trong đó có một trái sầu riêng, món mà Citta đặc biệt ưa thích. Anh ta liền tiến đến vị Tỳ Kheo và nói:

- Bạch Đại Đức, Ngài cũng ưa món này sao?

- Ồ thanh niên. Nếu muốn, ngươi có thể lấy đi!

Thanh niên sung sướng cám ơn vị Tỳ Kheo, nhận trái sầu riêng đem về. Dọc đường anh ta suy nghĩ: “Mình lao đồng suốt ngày mới có mà ăn, vậy mà vị Đại Đức thì trông thực là nhàn nhã, khỏi làm gì cả, lại được cúng dường đầy đủ. Hay thay, nếu ta cũng xuất gia để được cúng dường.

Nghĩ thế, thanh niên bèn cạo đầu đắp ca sa đi khất thực, gia nhập một tăng đoàn của đức Phật. Nhưng vì xuất gia với một động cơ không hay ho gì lắm, nên chẳng bao lâu Citta phải hoàn tục vì chàng không chiụ nổi nếp sống khổ hạnh gò bó của Tăng đoàn. Nhưng sự thanh tịnh an lạc của chư Tăng, với khung cảnh trang nghiêm ở vườn Cấp Cô Độc, nơi đức Thế Tôn ngự toạ, vẫn để lại một ấn tượng khó phai trong tâm khảm chàng đến nỗi khi đã hoàn tục, Citta vẫn thường mơ ước trở lại đời tu sĩ. Một hôm gặp con voi khó luyện, chàng trở nên chán nghề của cha, và tìm đến Phật xin xuất gia lại. Đức Thế Tôn chấp thuận cho chàng thế phát. Tu được vài tháng, chàng lại đâm chán, xin hoàn tục. Một lần nữa chàng trở về đời sống tại gia, cứ thế cho đến khi hoàn tục lần thứ năm. Lần này khi trở về nhà, việc đầu tiên chàng định làm là cưới một chị vợ để thay đổi không khí, họa may đời chàng có một chút ổn định nào chăng. Chàng đâm chán cái bệnh ưa thay đổi của chàng, và muốn thay đổi lần chót, do đó chàng cưới vợ.

Đời sống hôn nhân chẳng bao lâu cũng làm cho chàng chán ngấy lên tới cổ. Một đêm kia, chàng trằn trọc không ngủ được, dòm qua thấy chị vợ đang ngủ say, mép tiết ra một đống nước bọt trên gối, bụng mang bầu lớn trướng như một con cá “bong mú” sắp tới kỳ sinh nở, chàng bỗng thấm thía sự dơ uế khốn nạn của dục lạc và lập tức ôm y bát chạy ra đường. Qua năm lần xuất gia rồi hoàn tục, chàng vẫn giữ y bát như người ta giữ cái va li chờ dịp đi xa. Trên đường vắng, đêm khuya thanh tịnh, một mình tiến đến rừng Cấp Đô Độc, bao nhiêu hột giống tốt đẹp chàng đã gieo trong ruộng thức cũng trỗi dậy một hạt, đâm chồi nảy lộc. Chàng chứng được sơ quả Dự Lưu khi đang còn đi trên đường.

Trong lúc ấy, tại vườn Cấp Cô Độc, các thầy Tỳ Kheo sau thời tọa thiền đang ngồi bàn tán về chàng:

- Tên đó lần này nếu còn trở lại, chúng ta nhất quyết đừng cho xuất gia các huynh đồng ý không?

- Đồng ý! Cho y xuất gia chẳng khác nào bắt cóc bỏ dĩa. Y cứ nhảy ra nhảy vô hoài, làm náo động nếp sống thanh tịnh của chúng Tăng.

- Phải đầy! Nhưng mà chư hiền nghĩ sao? Y có còn trở lại nữa không? Chắc y sẽ xấu hổ không trở lại. Năm lần là quá lắm rồi!

- Chúng ta hãy chờ xem!

Đúng lúc ấy, thì Citta ôm y bát tiến vào vườn. Mặt rạng rỡ như trăng rằm, các căn tịch tịnh. Chư Tỳ Kheo không ai bảo ai, đều im lặng khi Citta ngỏ lời xin được nhập Tăng đoàn trở lại. Có nghĩa là họ đã bằng lòng.

Lần thứ sáu xuất gia, Citta nhiệt tâm tu tập và nhanh chóng đạt đến Tứ Thiền, nội tâm định tĩnh. Chàng vô cùng hân hoan, và mong mỏi có dịp để tỏ lộ Thánh quả. Một hôm, vài vị đã chứng A La Hán đang ngồi đàm luận về pháp. Citta cũng tham dự, không ngớt ngắt lời vị Trưởng lão Ma Ha Câu Thi La bảo:

- Này Citta, chú hãy đợi những vị Thượng tọa nói xong cái đã, rồi mới nên phát biểu ý kiến của mình.

Vài vị Tỳ Kheo bênh vực Citta:

- Bạch Thượng tọa, huynh Citta đã đắc pháp nhãn có thể nói lên những gì đã thực chứng. Xin chớ khiển trách y.

- Ta biết y có đạt thiền chứng. Nhưng điều đó không ngăn nổi y sẽ hoàn tục trở lại. Ví như một con bò được buộc chặt vào cái cây thì có vẻ hiền lành an ổn, nhưng nếu thả ra nó sẽ giẫm đạp nát hết ruộng lúa. Cũng vậy, một vị Tỳ Kheo khi đứng trước bậc Đạo Sư hay trước những bậc Thánh, có thể rất khiêm cung, đạo hạnh, nhưng khi thả lỏng y có thể thối đọa, từ bỏ học giới và hoàn tục. Một người có thể chứng đắc bốn thiền, nội tĩnh nhất tâm, và trong khi an trú các thiền chứng này, y khoác lác với mọi người, không thể tự kềm chế y đâm ra ưa khoe khoang thánh quả. Khi y hoan hỷ về chúng, tham đắm chúng, thì chính những thiền chứng ấy đưa y đến chỗ tàn mạt. Vì những cấu uế của tâm rất vi tế, thiền chứng chỉ làm cho chúng lắng xuống chứ không mất. Như khi một đạo quân cấm trại trong rừng, thì vì những tiếng trống, tiếng kèn, ống loa, xe cộ và tiếng người, ta không nghe được tiếng những côn trùng nấp trong cỏ, ta tưởng chúng đã im. Nhưng khi đạo quân nhổ trại đi chỗ khác thì tiếng côn trùng, tiếng dế sẽ nỉ non trở lại như thường.

Về sau, quả nhiên Tỳ Kheo Citta từ bỏ đời sống xuất gia lần thứ sáu. Các Tỳ Kheo hỏi Trưởng lão:

- Có phải Ngài đã biết trước việc này do thiền quán hay nhờ chư Thiên mách?

- Cả hai.

Họ đi đến Phật, kể lại vụ này và tỏ ý tiếc rẻ cho Citta. Nhưng Đức Thế Tôn dạy:

- Không sao, Citta sẽ trở lại.

Một hôm, Citta cùng đi với Pottaphàda một nhà khổ hạnh lang thang, đến hầu Phật để hỏi về pháp. Nhưng lời đức Thế Tôn dạy cho vị khổ hạnh làm chàng rất hài lòng. Chàng bèn xin Phật xuất gia lần thứ bảy, cũng là lần chót. Đức Phật bằng lòng, sau một thời gian ngắn Citta chứng quả A La Hán.

Đức Thế Tôn thuật lại nguyện do vì sao Citta phải bảy lần xuất gia như vậy, mới chứng quả. Nguyên một đời trước thời Phật Ca Diếp, chàng cùng đi với một người bạn xuất gia. Bạn chàng muốn ngỏ ý hoàn tục vì không chịu nỗi khổ hạnh. Thay vì khuyến khích bạn tu hành tiếp tục, Citta lại có tâm xấu xúi giục bạn bỏ tu để bạn bị chê, mình được khen: vì nhân duyên ấy, kiếp này Citta phải chịu sự sỉ nhục vào ra bảy lần trong Tăng đoàn…

Người xuất gia có hai ước vọng:

- Ước vọng gần gũi nhất là:

Chánh tín xuất gia, đồng chơn học đạo. Bất nhiễm thế duyên, thường tu phạm hạnh.

- Và ước vọng cao xa là:

Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh.

Như Thủy

(Theo Wheel Pub – 115)

Chim Cú Mèo

Xưa có con chim Cú Mèo làm tổ chung trên một cây với chim Gáy.

Một hôm, Cú Mèo đến từ giã chim Gáy để dọn đi nơi khác, Gáy ngạc nhiên hỏi:

- Bác đi đâu thế?

- Tôi dời nhà sang phương Tây.

- Sao thế? Có việc gì làm trở ngại cho bác? Tôi trông nơi đây sinh sống dễ dàng, mát mẻ, sao bác lại bỏ đi?

Cú Mèo buồn rầu đáp:

- Dân cư vùng này không ưa tôi.

Chim Gáy dịu dàng bảo:

- Này bác ạ! Chỗ thân tình với nhau tôi nói cho bác nghe... sở dĩ người ta không ưa bác là vì tiếng kêu của bác. Nếu sang phương Tây bác cũng kêu như thế, thì người ta cũng ghét bác thôi. Chi bằng bác đổi tiếng kêu thì Ðông Tây gì cũng tốt như nhau, chẳng ai ghét bác nữa đâu mà sợ.

Cú Mèo nghe nói, giận giữ bỏ đi miền Tây ở. Ðúng như lời tiên đoán của chim Gáy. Dân chúng miền Tây ghét bỏ nó, Cú Mèo đâm ra hận đời, nhất định đi vào thâm sơn cùng cốc, lánh xa loàn người, loài vật, mắt trời, mặt trăng...

Vui lên thiên hạ đồng tình

Khóc than bạn sẽ một mình khóc than.

Như Thủy

Phất Già Sa Vương với pháp vô thường

Khi Thế Tôn còn ở đời, có hai ông vua kết bạn thân, một ông tên là Phất Già Sa Vương, một ông là Bình Sa Vương.

Phất Già Sa Vương chưa biết đạo, làm một cây bông bằng thất bảo, đem biếu bạn Bình Sa Vương. Bình Sa Vương đem bông ấy cúng Phật, cầu người cho bạn ông được thấy Phật nghe Pháp và gặp chúng Tăng, mau biết tu hành. Ông cầu nguyện xong bạch Phật rằng: “Con không biết lấy gì đặng tặng lại bạn con cho xứng.”

Phật dạy: “Ông nên viết một quyển kinh “Thập Nhị Nhơn Duyên” mà tặng. Bạn ông được kinh ấy sẽ đọc tụng, hiểu biết tin đạo”. Bình Sa Vương vâng lời Phật dạy, về viết một quyển kinh và thơ riêng gởi cho bạn. Trong thơ ông nói: “Anh có lòng tốt cho tôi cây hoa báu, tôi xin biếu anh quyển Thập Nhị Nhân Duyên, anh nên đọc tụng tìm hiểu nghĩa lý, anh sẽ được hưởng pháp vị và quả báo tốt đẹp, rồi chúng ta dắt tay nhau đến chỗ đồng đạo”.

Phất Già Sa Vương được thơ và sách, đêm ngày đọc tụng suy nghiệm đạo lý, hiểu thấu đạo mầu, ông nhận thấy ngũ dục là gốc rễ khổ não, đã nhiều kiếp mê man vì nó, nay tỉnh ngộ, ngó lại quyền quí danh lợi càng thêm ghê sợ.

Vua bèn mời các quan đại thần giao phó việc nước, nhường ngôi cho Thái tử, rồi xuất gia cạo đầu, mặc áo cà sa, bưng bình bát làm vị Sa Môn, một mình đi đến La Diệt, tìm đến chỗ Phật cầu thọ giới pháp; mới đến ngoài thành vừa trời tối, đến nhà người thợ gốm xin ngủ nhờ một đêm, mai sẽ đi hầu Phật.

Thế Tôn ngự ở tịnh xá, Ngài biết Phất Già Sa Vương sáng ngày mai sẽ bỏ mạng. Phật thương xót cho ông từ xa xôi đến cầu thọ giới nghe kinh mà không kịp, đã bị quỷ vô thường bắt giữ. Phật liền hóa làm một vị Sa Môn cũng đến xin nghỉ nhờ nhà người thợ gốm. Thợ gốm mời hai vị Sa Môn ở chung một phòng. Vào phòng vị hóa Sa Môn trải tọa cụ ngồi, hỏi ông Phất Già Sa: Ông ở đâu đến đây? Thầy ông là ai? Vì nhân duyên gì ông xuất gia? Ông đã thấy Phật chưa?

Ông Phất Già Sa thưa: Tôi chưa được thấy Phật, tôi nghe pháp Thập Nhị Nhân Duyên nên tôi đi xuất gia. Ngày mai tôi sẽ vào thành hầu Phật cầu nghe giới pháp.

Vị hóa Sa Môn bảo: “Mạng người vô thường, nay còn mai mất, nó không hẹn trước với người, không biết ngày nào giờ nào mà định; chỉ nên quán thân này do bốn đại mà thành, chết đi sẽ trả về đất, nước, gió, lửa. Phải giác ngộ thân này tuy có rồi sẽ hoàn không, giả dối hòa hợp sẽ bị tan rã.

Ông nên chuyên cần niệm ngôi Tam Bảo, niệm đức bố thí trì giới, hiểu biết các pháp đều vô thường. Nếu ông tưởng niệm luôn như thế thì được lợi lạc, cũng như thấy Phật vậy. Nếu ông cứ nghĩ ngày mai sẽ đến hầu Phật thì không kịp đâu.”

Vị hóa Sa Môn nói pháp như vậy cho ông Phất Già Sa nghe, ông định ý suy nghĩ, liền chứng quả A Na Hàm.

Phật hiện toàn thân ba mươi hai tướng tốt, phóng hào quang, ông Phất Già Sa vui mừng đảnh lễ. Phật lại dặn dò: Sự vô thường đến ông đừng hoảng sợ.

Ông thưa: Con xin vâng lời Phật dạy.

Vị hóa Sa Môn sáng mai biến mất.

Ông Phất Già Sa một mình đi vào thành tìm đến hầu Phật. Ði giữa đường có con bò mới sinh, nó sợ người ta bắt con, chạy lại húc ông Phất Già Sa vỡ bụng chết. Ông được sanh về cõi trời.

Phật dạy các đệ tử đem xác ông thiêu và xây tháp.

Ngài bảo: Tội ác đã tạo ra đối đầu phải trả. Các ông phải cẩn thận!...

Thích Nữ Ðàm Minh

Quả phụ buồn khăn trắng tiễn chồng đi

Người lặng im như chẳng nói năng gì

Theo vết bánh xe tang vào nghĩa địa

Những cô nữ đang xuân tình tươi trẻ

khóc dở dang số phận nửa chừng xuân.

Oán thù vay trả

Phất Già Sa Vương đi vào thành La Duyệt, giữa đường bị con bò mới sanh, sợ người ta bắt mất con, chạy lại húc ông vỡ bụng chết ngay. Người chủ bò thấy thế sợ quá, vội bán bò cho người khác. Người kia mua bò dắt về định nuôi lấy sữa, vừa dắt về đến nhà lại bị bò húc, người chủ chết luôn. Con người chủ bò nổi giận, giết bò đem thịt bán. Người nhà quê mua đầu bò gánh về, đi được nửa đường mệt, treo đầu bò lên cây rồi nghĩ mát. Bỗng nhiên đầu bò đứt dây rơi trúng anh nhà quê, sừng bò trúng vào bụng anh chết ngay. Trong một ngày ba người bị chết vì một đầu bò.

Bình Sa Vương cho là điềm quái gở. Lo sợ, vội vàng cùng quần thần đi đến hầu Phật. Ðến nơi, vua cung kính đảnh lễ rồi đứng hầu một bên:

- Bạch Thế Tôn, một đầu bò làm chết ba người, việc đó không biết duyên do vì sao? Xin Ngài chỉ dạy cho.

Phật bảo:

- Ðại Vương này, các tội lỗi đã tạo ra, có nguyên nhân rồi phải trả báo, không phải tình cờ mà có.

Vua thưa:

- Xin Ngài dạy cho con biết để tránh điều tội ác.

Phật dạy:

- Trước kia có ba người lái buôn, cùng nhau thuê chung cái nhà của một bà già. Ở được mấy tháng ba người thấy bà già có một mình đau yếu, chờ khi bà đi vắng, ba người rủ nhau lén đi, không trả tiền thuê nhà cho bà. Bà đi chơi về, thấy nhà vắng không có ai, hỏi người hàng xóm mới biết ba người đã trốn đi rồi. Bà vừa giận vừa tiếc tiền, hấp tấp chạy theo cho kịp ba người, khi gặp, bà đòi tiền thuê nhà mấy tháng nay. Ba người xúm nhau mắng thậm tệ, nói tiền nhà đã trả rồi còn đòi chi nữa, ai công nợ chi mụ... Bà cô đơn yếu đuối cãi không lại giận hờn buồn tủi khóc lóc, kêu trời vang đất, rồi bà nguyền rủa thề rằng: “Trời đất quỷ thần làm chứng cho tôi cùng cực vô lộ bị ba người này khinh khi lường gạt, lại mắng nhiếc sĩ nhục. Tôi nguyện đời sau sanh ra chỗ nào, gặp ba người này tôi sẽ trả oán, làm cho mất mạng, ví dầu đặng đạo cũng phải trả nợ này đã.

Phật bảo Bình Sa Vương: Bà già khi ấy là con bò ngày nay, ba người lái buôn thuê nhà xưa là ba người bị bò húc chết ngày nay vậy.

Bình Sa Vương và các vị đại thần nghe Phật dạy ai nấy đều sợ hãi, cung kính đảnh lễ phát nguyện từ nay về sau không dám lường gạt dối trá, gây thù kết oán nữa.

Một lời thề nguyện, không có hình tướng mà không mất, cứ tìm nhau đòi oán trả thù rất đáng ghê sợ, chúng ta cần phải giữ gìn lời nói và hành động vậy.

Thích Nữ Ðàm Minh

Không có một Quả nào mà không có Nhân, cũng như không có một Nhân nào mà không có Quả.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/09/2016(Xem: 5689)
Vào cuối đời Tây Tấn, vua Huệ Đế ngu tối, việc triều chính đều do hoàng hậu Giả thị chủ trương. Giả hậu là người nham hiểm, lại biết quyền biến đởm lược, mưu giết các thân vương, phế bỏ Thái tử. Triệu Vương Luân bèn phẫn uất, cử binh giết Giả hậu, truất phế vua Huệ Đế mà tự xưng lên làm vua. Các thân vương khác thấy vậy cũng dấy binh tranh giành lẫn nhau, cốt nhục tương tàn, làm cho nhà Tấn suy yếu.
22/08/2016(Xem: 4624)
Sáng hôm nay trong thinh lặng của một sáng chủ nhật mùa đông, tôi muốn dành tâm trí thảnh thơi để viết vài hàng trả nợ cho cô bạn tí hon ngày xưa. Nợ vì tôi cứ hẹn sẽ viết cho nàng. Gọi là bạn nhưng chưa bao giờ nói chuyện, gọi là bạn vì học cùng trường. Tí hon vì nhỏ hơn tôi ba tuổi. Từ nhỏ, tôi có một tật rất xấu, tôi xem ai nhỏ tuổi hơn tôi là con nít. Vì sao chỉ hơn vài tuổi mà khi nào tôi cũng có cảm tưởng như mình đứng rất cao để nhìn xuống những người tí hon này!
11/08/2016(Xem: 4233)
Nó không biết chính xác năm nay mình bao nhiêu tuổi, chỉ nghe sư thầy nói nó ở chùa đã 12 năm với cái tên Quảng Chân Tâm. Tất cả những đứa trẻ ở chùa ngoài tên đời do cha mẹ đặt, sư thầy đều cho pháp danh với chữ Quảng đứng đầu.
03/08/2016(Xem: 37103)
Nhà thơ triết gia Phạm Công Thiện [1941 - 2011] qua đời năm 2011 tại Houston, nhưng chuyện kể, các bài viết về anh đã nhiều lầm lạc : Người viết : anh bỏ áo tu hành lấy cô vợ người Pháp, theo Thiên Chúa Giáo, kẻ khác viết : anh không hề có một mảnh bằng kể cả bằng tú tài mà dạy Triết Học Viện Đại học Sorbonne, mười lăm tuổi anh đọc và viết hàng chục ngôn ngữ, mười lăm tuổi anh dạy trung học, hai mươi tuổi anh là khoa trưởng khoa Khoa Học Nhân Văn, Đại Học Vạn Hạnh Sài Gòn, anh là triết gia không cần học một ai ? Dạy Triết học tại một Đại Học Pháp mà không cần một văn bằng nào ?
25/07/2016(Xem: 5303)
Người đàn bà đến bên cửa sổ ghé mắt nhìn ra ngoài trời. Qua lớp mưa mù dầy đặc trắng xoá ngoài kia bà chẳng nhìn thấy được gì ngoài những tia chớp xé toạt không gian kèm theo hàng loạt tiếng sấm như long lỡ đất trời. Thời tiết chiều nay quá xấu, xấu hơn người ta đã dự đoán và xấu hơn sự suy nghĩ của Quang, đứa con trai lớn của bà. Đã mấy tháng rồi nó mới có dịp bay về thăm bà vậy mà hôm nay trời lại mưa bão quá chừng! Trước khi lên máy bay nó còn gọi báo cho bà biết: - Bên đây thời tiết đẹp lắm má! Mong rằng khi con bay sang đến Cali thì trời quang mây tạnh, con sẽ chở má đi ăn và ở chơi với má đến tối mới về lại khách sạn.
06/07/2016(Xem: 8687)
Hôm nay là ngày 10 tháng 6 năm 2015, tại thư phòng chùa Viên Giác Hannover, Đức Quốc, tôi bắt đầu viết tác phẩm thứ 65 của mình với tựa đề là “Nước Úc trong tâm tôi” để sang năm 2016 sẽ xuất bản và ấn tống. Tác phẩm nầy được viết trong mùa An Cư Kiết Hạ lần thứ 31 của năm Ất Mùi, nghĩa là từ năm 1984 đến nay (2015) cứ mỗi năm ba tháng như vậy, Thầy trò chúng tôi có trọn vẹn 3 tháng an cư tại chùa Viên Giác thật là an lạc. Chương trình mỗi ngày được bắt đầu từ 5 giờ 45 sáng. Đại Chúng vân tập nơi Tổ Đường để xá Tổ, sau đó lên Chánh Điện, hô canh và tọa thiền 15 phút. Sau khi xả thiền, Đại Chúng bắt đầu trì tụng Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm, phần giữa của thời khóa có kinh hành niệm Phật ba vòng, tiếp đó lạy danh hiệu của chư Phật, Bồ Tát và Thánh Chúng độ 35 lạy. Sau thời công phu khuya ai về phòng nấy để nghỉ ngơi hay hành trì tiếp, hoặc tập thể dục. Đúng 8 giờ sáng là giờ điểm tâm của Đại Chúng, ai nấy đều tỉnh thức trong lúc dùng sáng, không nói chuyện, mà câu chuyện hằng ngày chỉ được
13/06/2016(Xem: 4396)
Hoa Lan nhất định không đầu hàng ngẩng mặt than thở: “Đời là bể khổ, tình là giây oan“ như cụ Tố Như đâu. Hoa Lan phải tâm tâm niệm niệm cột vào tâm câu Nhất thiết duy tâm tạo, khổ hay vui đều do cái đầu và bàn tay năm ngón của ta điều binh khiển tướng. Hoa Lan sẽ kể về nỗi khổ, niềm đau của thế gian trong trường thiên Tỵ Nạn Tình Duyên, một vấn nạn trong cuộc sống lứa đôi, trong vòng ái ân, sinh tử. Nỗi khổ chúng sanh chỉ cần khoanh vùng trong hai chữ tỵ nạn cũng đủ làm ta khiếp vía. Nào tỵ nạn cộng sản, con rơi của tỵ nạn chính trị, cháu rớt của tỵ nạn kinh tế, những đề tài ấy nhắc đến đã đủ ù tai hoa mắt và cũng chẳng phải là sở trường của mình, Hoa Lan sẽ kể về đề tài tỵ nạn tình duyên, nơi đã đi, đã đến và đã về.
01/06/2016(Xem: 13218)
Bài này được viết như một ghi chú cho Thiền Tông, để như một cách tiếp cận đơn giản… và hy vọng, cũng là một ghi chú cho rất nhiều pháp khác của nhà Phật, kể cả Tịnh Độ. Bởi vì, Thiền Tông là pháp môn cốt tủy nhất, trực tiếp nhất, không qua bất kỳ phương tiện nào khác, và cũng có thể dùng làm chiếc cửa lớn cho tất cả các pháp khác.
31/05/2016(Xem: 20956)
Chuyện xảy ra ở Việt Nam, nhưng lại bắt đầu từ bên Mỹ. Số là, vào khoảng thời gian năm 1956, có một kỹ sư Hoa Kỳ tên là Frank M.Balk. Chàng kỹ sư này suốt đời chẳng biết gì về cái xứ bé nhỏ xa xôi tận vùng Đông Nam Á tên gọi là Việt Nam cả.
27/05/2016(Xem: 6568)
Bao nhiêu năm ao ước cho đến hôm nay tôi mới có duyên lành được hành hương về Tây Trúc - Tây Trúc hay Thiên Trúc là tên gọi trước đây của xứ Ấn Độ. Trong phái đoàn tôi đi có nhóm Sợi Nắng và các Phật tử đến từ Canada cũng như Hoa Kỳ. Về chư Tăng thì có thầy Tánh Tuệ - nhà thơ Như Nhiên. Thầy là người từng sống và học tập ở Ấn Độ suốt bảy năm nên thầy nắm rất rõ về lịch sử, địa lý, phong tục tập quán... của người Ấn Độ. Cũng chính vì thâm niên như vậy nên nước da thầy rám nắng và người ta thường gọi thầy với cái tên rất gần gũi là "thầy cà-ri". Ngoài ra, phái đoàn còn có thêm sư cô An Phụng và sư cô Huệ Lạc
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]