Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

08. Chó rừng cảm hóa đức vua

24/10/201202:50(Xem: 9201)
08. Chó rừng cảm hóa đức vua

THANH GƯƠM BA-LA-MẬT
Tác giả: Minh Đức Triều Tâm Ảnh

Chó rừng cảm hóa đức vua





Vào một thuở rất lâu xa, Phật Thích Ca với hạnh nguyện Bồ-tát, ngài sinh làm vua chó rừng, cai quản rừng và những khu nghĩa địa mênh mông, luôn đoanh vây bên mình hàng ngàn con chó đủ loại, sống an ổn và thuận hòa với nhau như một quốc độ có nền móng pháp luật vững chắc.

Bậc Đại Chúng Sanh sống tại một cội cây to, lúc nào cũng đầy đủ cận thần và thị vệ, những dũng tướng trung kiên sẵn sàng hy sinh mạng sống để bảo vệ chúa.

Cuộc sống đang yên lành bỗng nhiên tai họa giáng xuống. Hàng chục người, hàng trăm người không biết từ đâu xuất hiện, với mọi thứ vũ khí có được trong tay, họ ra sức giết chó. Lệnh báo động “ăng ẳng” truyền vang từ nghĩa địa này sang nghĩa địa khác.

Bậc Đại Chúng Sanh và đám cận thần cả kinh thất sắc. Viên dũng tướng là một chó vằn to lớn hiên ngang, không đợi lệnh chủ đã vọt đi thi hành nhiệm vụ của mình.

Lát sau chó vằn về tâu lại:

- Chúng là bọn thị vệ, là bọn quân hầu của vua loài người, thưa chúa. Chúng đã tàn sát đánh giết thần dân của chúng ta ở phương đông...

Lời chưa dứt thì từ miệt dưới, hàng trăm con chó tang thương tất tả chạy lên. Con bị què chân, con bị cụt tai, con bị thương nặng với máu me đầy mình. Chúng kêu lên những tiếng thống thiết rồi đứng tràn đầy nghĩa địa mong đợi sự bảo vệ của chúa.

Bậc Đại Chúng Sanh đứng lên, đau xót nhìn đồng loại, đưa đôi mắt buồn rầu nhìn tả hữu như han hỏi lý do.

Một con chó tâu:

- Chúng tôi không ai hiểu lý do! Tai họa từ trên trời đổ xuống cho giống chó nhà ta!

Chó khác hừ một tiếng:

- Trời không có làm hại ai. Chỉ có giống người mới tàn ác như vậy.

Bậc Đại Chúng Sanh phán hỏi:

- Trong các bạn, thời gian trước đây, có ai gặp, thấy, hoặc biết hành tung của bọn người ác độc kia? Thảng hoặc, các bạn đã có ai gây thù chuốc oán gì với họ?

Một cụ chó già nua trong đám chạy nạn, bị thương ở cẳng, lết ra phủ phục nói:

- Thưa chúa, chúa có dạy: gặp giống người thì phải biết “kính mà xa”, vì tâm địa họ tráo trở khó lường. Chúng tôi, thần dân ở phương đông, tìm chút xương thừa nơi nghĩa địa, cơm đổ nơi đường sá, miếu hoang – có bao giờ dám gần họ, đụng chạm đến họ mà sinh thù oán.

Một con chó khác rành rõi trình bày:

- Cách đây hai hôm, bọn kia cùng vua loài người, thị nữ tùy tùng vào chơi nơi khu vườn phía tây thành phố. Chúng ngồi trên hai trăm con ngựa đẹp đẽ giống Sindhu với yên cương da thú láng lẫy. Gần tối họ mới trở về. Đêm đó chẳng biết xảy ra chuyện gì mà sáng hôm sau, rải rác một vài xóm chó ven sông Hằng bị sát hại do đám thị vệ của vua loài người. Một vài thần dân sống sót chạy vào các nghĩa địa nhỏ. Chiều hôm ấy và qua sáng hôm nay, mười ba nghĩa địa gần kinh thành đều bị càn quét. Mấy ngàn chó thiệt mạng, thây chồng núi, xác ngập đường, máu đỏ đất. Và thưa chúa, bây giờ thì chúng đang tảo thanh các nghĩa địa lớn, lại sắp vượt sông.

Ngay khi đám chó đang xôn xao thì mấy trăm đồng loại ướt loi ngoi từ mạn sông lếch thếch chạy lên. Xa một đoạn phía sau, có toán người rầm rộ la hét.

Bậc Đại Chúng Sanh cất tiếng gầm uy dũng, chấn động cả nghĩa địa. Tả hữu bốn dũng sĩ đồng trở oai nghi chồm tới, phóng như bay biến về cuối chân trời, theo chúa.

Chỉ thoáng mắt, bậc Đại Chúng Sanh đã đón chặn đoàn người. Và nói tiếng người:

- Hãy ngừng lại! – Tiếng như sấm dội – các người hãy ngừng lại sự giết chóc dã man ấy! Hãy nói cho chúng tôi biết lý do tại sao các người tàn hại đồng loại chúng tôi?

Toán người kinh dị dừng lại.

Bốn viên dũng tướng như bốn mũi tên cũng vừa lao tới, lông dựng ngược, gầm gừ dữ tợn, phân thành tả hữu hai bên hộ vệ chúa. Toán người chưa hết ngạc nhiên thì không biết từ đâu trùng trùng điệp điệp, lặng lẽ như ma, một đoàn chó khổng lồ lông vằn vện đến bao vây họ ở giữa. Đứng bốn góc như trấn bốn phương là bốn chó cao lớn, phương phi oai hùng như sư tử. Bậc Đại Chúng Sanh mừng rỡ cất tiếng:

- Khá khen cho các bạn đã không quản ngại đường xa đến cứu ứng kịp thời.

Một tiếng hùng dũng tâu:

- Nghe tin muộn, chúng tôi triệu tập đám thần dân tinh nhuệ kề chân núi Hy Mã, cấp tốc ngày đêm lên đường. Thế mà vẫn không kịp. Ngưỡng mong chúa tha tội chết!

Đồng lúc, bốn chú chó rừng như sư tử đến phủ phục dưới chân bậc Đại Chúng Sanh. Vua loài chó lớn tiếng ủy lạo, tỏ lời ban khen nồng hậu. Bốn chó rừng lui ra. Một chốc, vòng vây siết chặt toán người lại với khí thế rần rộ, kinh người.

Tốp tay chân thuộc hạ của đức vua sợ hãi đến xanh mặt. Họ tự nghĩ:

- Loại chó rừng này ở đâu mà có luật lệ quy củ đến thế. Hôm nay, dẫu có chiến thắng, bên ta tất cũng tổn thất nặng nề vì các chiến tướng uy mãnh này.

Khi ấy, bậc Đại Chúng Sanh nói với họ:

- Hỡi giống người hữu phúc và cao sang! Phải chăng đạo đức và công lý đi trước mọi sự? Vậy thì nhân danh đạo đức và công lý, quý vị hãy trình bày lý do cho chúng tôi được tỏ tường. Các người dư thừa sự khôn ngoan, trí xảo cũng như sức mạnh; nhưng nếu cứ tàn hại chúng tôi như thế, chúng tôi cương quyết bảo vệ mạng sống và danh dự chung cho đồng loại, lấy mười đổi một. Các người một trăm người thì chúng tôi hy sinh một ngàn trang dũng sĩ, chắc chắn các người cũng không thể sống sót bình yên mà trở về! Xin giống người đầy đủ lương tri cao cả, hãy lượng xét cho!

Nhìn sắc diện oai nghi của vua loài chó, lời nói tình lý minh bạch, lại thấy lực lượng chó rừng hùng hậu chẳng khác gì thiên binh vạn mã, ai cũng cảm thấy đây chẳng phải là lời nói ngoa.

Người cầm đầu bước ra nói:

- Tất cả là do lệnh của đức vua! Nguyên do như sau: Hai trăm con ngựa giống Sindhu đẹp đẽ của đức vua, với bộ yên cương, dây da bền chắc và tốt đẹp; sau một đêm, đồng loại của các ngươi đã “chén” hết sạch vật trang bị phụ tùng kia. Vua nổi giận ra lệnh giết hết chó trong khắp quốc độ.

Bậc Đại Chúng Sanh cau mặt lại:

- Nếu quả là chúng tôi làm việc ấy thì chúng tôi có tội. Nhưng yên cương, da và dây ấy, đức vua đặt ở đâu?

- Vẫn mắc vào nơi xe, xe để trong nội thành suốt một đêm kia.

Suy nghĩ một lát, bậc Đại Chúng Sanh hỏi:

- Ai là người thấy rõ chúng tôi hay bắt được chúng tôi đang nhai, cắn hoặc đang ăn da và yên ấy?

- Không ai thấy, tên cầm đầu đáp – Nhưng một kẻ hộ vệ bạch với đức vua rằng: “Thưa Thiên Tử, từ miệng cống chui vào, các con chó hoang dã đã “thịt” hết những bộ yên cương bằng da ấy”. Thế là đấng Thiên Tử tức giận đến xám xanh mặt rồng, ra lệnh cho hai ngàn quân cấm vệ tảo thanh giết cho kỳ hết loài chó. Chúng tôi là kẻ thừa hành mà thôi.

Bậc Đại Chúng Sanh than to:

- Ôi! Vua loài người thiệt là ngu si, tàn độc và bất minh. Thôi! Lỗi không tại các ngươi, các ngươi hãy về đi. Ta sẽ đích thân vào cung vua làm cho nội vụ được sáng tỏ.

Khi toán người đã đi hết, bậc Đại Chúng Sanh quay lại đám thuộc hạ:

- Hãy quay trở về mái nhà yên ổn của chúng ta. Chớ có sợ hãi. Ta sẽ đến chốn của vua loài người và phó thác mình cho chánh pháp.

Bọn chó rừng tuân lệnh rút lui có trật tự, bậc Đại Chúng Sanh hướng tâm đến (àvajjitvà) Ba-la-mật rồi phát nguyện rằng:

- Tâm Từ là đệ nhất pháp. Hãy làm cho Tâm Từ được an trú vững mạnh, không có chao động. Tâm Từ cũng là phương thuốc mầu nhiệm cảm hóa kẻ kiêu căng độc ác. Với năng lực Tâm Từ có được trong vô lượng kiếp, ta phát nguyện như vầy: Trên thế gian này không ai có quyền xâm phạm đến ta bằng đao tên hoặc bằng đá gậy. Rồi bằng Từ, Tuệ tạo nên sức mạnh, ta sẽ cảm thắng đức vua để mưu cầu hạnh phúc cho phần đông.

Phát nguyện xong, bậc Đại Chúng Sanh an nhiên một mình đi vào thành. Nhờ Tâm Từ Ba-la-mật bảo trợ, không một ai khởi ác ý với ngài.

Quân canh vừa phát giác, bậc Đại Chúng Sanh đã đi thẳng đến pháp đình (vinicchaye); thấy vua, đảnh lễ vua rồi ngồi nghỉ ở một bên. Quân canh đã vào đến nơi hò hét với đùi gậy, nhưng đức vua ngăn lại vì ngài linh tính một việc lạ lùng tỏa ra nơi con chó rừng uy nghi nọ.

Nhà vua chưa hề thấy bao giờ một con chó rừng với dung sắc chói sáng rực rỡ đến như vậy, nên cứ đưa mắt tò mò ngạc nhiên nhìn mãi. Bậc Đại Chúng Sanh bấy giờ mới tiến lại, chắp tay với cung cách của một vị đại thần:

- Khải tấu bậc nhơn chủ anh minh sáng suốt! Có phải người đã ra lệnh tàn sát hết tất cả loài chó chúng tôi?

Thấy chó nói được tiếng người, đức vua ngạc nhiên quá:

- Phải! Phải!

Bậc Đại Chúng Sanh trang nghiêm chất vấn:

- Lỗi của chúng là gì? Dám thưa bậc Nhơn chủ quý trọng?

Vua đáp như cái máy:

- Chúng nhai, cắn, ăn, nuốt những đồ da phụ tùng lẫn những yên cương quý giá của ta!

- Thưa bậc chúa loài người! Ngài có tận mắt thấy, hay có ai tận mắt thấy con chó hoang, con chó nghĩa địa hoặc con chó rừng nào ăn không?

- Ta không biết và chẳng có ai tận mắt thấy và biết!

Bậc Đại Chúng Sanh cất giọng dõng dạc của một vị quan tòa:

- Hãy nghe đây! Ngài là bậc minh quân của thiên hạ! Là chúa của nhân gian! Là mặt trời của quốc độ! Là cán cân cho bá tánh! Là đại diện cho công lý, cho pháp (dhammo)! Tuy không thấy, không biết (và chẳng ai thấy và biết) những con chó nào là thủ phạm đã ăn yên cương bằng da; mà vẫn ra lệnh tàn sát tất cả chó được thấy trong quốc độ; như vậy có đúng “pháp” không, có hợp lẽ phải không, thưa bậc nhơn chủ chí tôn?

Bị buộc tội một cách đanh thép, hợp pháp và không có kẻ hở; nhà vua đâm ra bực bội, cất giọng oang oang nói:

- Lũ chó đã ăn nên lũ chó phải chết. Đó là lời phán truyền tối cao của ta! Đó là quyền lực của ta, lẽ phải của ta! Ngươi làm được gì nào?

Lời thách thức của kẻ có quyền uy và sức mạnh không phải là điều dám coi thường; bậc Đại Chúng Sanh tự nghĩ:

“- Đức vua đã tức tối, đã giận dữ vì tự ái và kiêu ngạo. Sự sáng suốt đã bị mây che. Ta hãy tìm phương tiện cho đức vua hoan hỷ bằng tư cách nhẫn nhục của ta”. Bèn nói:

- Nếu vì những lời nói ngay thật kia mà xúc phạm đến oai đức thì xin đức vua cho tôi được sám tội!

Bậc Đại Chúng Sanh quỳ xuống, chấp hai chân trước, lạy đúng ba lạy rồi phủ phục dưới chân vua không dám nói một lời nào nữa.

Thấy thái độ ấy, tự ái được vuốt ve, đức vua đẹp dạ nên sự giận dữ đã tiêu tan:

- Ta cho phép ngươi nói hết những điều muốn nói.

Bậc Đại Chúng Sanh lại nghĩ thầm:

“- Bây giờ ta phải bắt đầu lựa lời khôn khéo như trương ra một cái bẫy bằng vàng ròng. Sau đó, ta sẽ không dừng lại. Sức mạnh của pháp là phải cuốn phăng những cái bất chánh. Phải dũng mãnh dùng trí tuệ như lưỡi gươm vô địch đánh bại và bứt tung những tâm niệm bất thiện của đức vua. Phải chuyển hóa y một cách tức khắc.”

- Thưa bậc nhơn chủ! Hai trăm bộ yên cương bằng da quý báu ấy, bọn chó nào đã ăn thì phải bị trừng phạt một cách xứng đáng. Làm như vậy mới chứng tỏ đức vua chính trực và công minh xiết bao!

Nhà vua vuốt râu cười ha hả:

- Cho đến bây giờ ta mới thấy ngươi nói một câu nghe được!

- Thưa thiên tử – Bậc Đại Chúng Sanh nói tiếp – Tôi hơi tò mò vậy chẳng hay tất cả chó đều phải bị đền tội, hay có một số được ngoại trừ?

- Có chứ! Vua đáp – Mấy ngàn con chó săn cao sang thuộc nòi giống tốt, đầy đủ về dung sắc và sức mạnh của ta đều được tha mạng.

Bậc Đại Chúng Sanh vẫn ôn tồn:

- Tâu đại vương! Chỗ này tôi nghe không được rõ ràng; hay có sự nhầm lẫn nào đây? Trước thì ngài bảo ra lệnh giết tất cả loài chó, bây giờ thì ngài bảo ngoại trừ mấy ngàn chó săn thuộc giống dòng cao sang trong cung điện. Sao kỳ lạ như thế? Hay ở bên trong đại vương còn có thâm ý cao xa mà tôi chưa hiểu thấy chăng?

Đức vua lúng túng ngồi thừ ra chưa biết trả lời sao cho ổn.

Bậc Đại Chúng Sanh tự nghĩ:

“- Lao đã phóng ra rồi. Đây là mũi nhọn quyết định cho cuộc tiến công cuối cùng. Nếu đức vua nổi giận thì ta đành hy sinh thân mạng tạm bợ này. Nếu đức vua không giận thì ta sẽ dễ dàng cảm hóa ngài. Và đấy là do nhờ phước báu của phần đông sanh chúng. Ta hãy theo lao.”

Với dòng máu chánh khí sôi trào cuồn cuộn trong lồng ngực, bậc Đại Chúng Sanh cất cao lời như tiếng vọng của chân lý lồng lộng giữa từng không:

- Hỡi đức nhơn chủ tối cao và quý mến! Nếu sự việc đúng là như vậy thì chính ngài đã thực hiện bốn sở hành vô lý (agatigamanam) và bất thiện, đầy đủ dục, nộ và si. Tức là thiên vị, ghét bỏ, kiêu căng và không minh mẫn. Những sở hành như vậy là không thích đáng, không hợp với chánh trí, chẳng phải pháp, không đúng với vương pháp (ra±gadhamo); chính là con đường ngược, lộ trình đau khổ, trầm luân pháp, địa ngục nóng, phi đạo đức! Ôi đức vua nhân từ! Uổng thay! Tiếc thay!

Đức vua đã bắt đầu thấy mình sợ hãi, đã nhìn ra tội. Tay và chân ngài đã lạnh ngắt.

Bậc Đại Chúng Sanh tiếp tục cất giọng lời liêm khiết và vô úy hết mực:

- Kẻ thừa hành công lý, pháp, thì lời nói, việc làm, ý nghĩ thảy đều quân bình. Quân bình như chiếc cân chính xác nhất. Không thể bên thương bên ghét. Không thể dùng uy quyền và sức mạnh để đàn áp kẻ yếu đuối, tàn sát kẻ có tội. Ma pháp, ma lộ, trược pháp, trược hạnh không phải là sự hành trì và con đường của các đấng Chuyển Luân Thánh Vương, đức vua phải sáng suốt để xa rời, buông bỏ ngay tức khắc tất cả mọi lầm lỗi.

Rồi bậc Đại Chúng Sanh đọc lên bài kệ:

“Nếu biết mình thiên vị

Bảo vệ một giống loài

Tàn hại phía yếu đuối

Công lý thực hành sai

Bậc thánh nhân xưa kia

Tâm quân bình tuyệt hảo

Hạnh phúc cho muôn loài

Lại nhân gieo thiện đạo”.

Nhờ duyên lành đầy đủ và năng lực của Pháp, sau bài kệ, tâm đức vua đã được cảm hóa; ngài ôn tồn hỏi:

- Vậy này hiền trí! Thế ngươi có biết ai là thủ phạm đã ăn hai trăm bộ yên cương da ấy không?

- Có biết – Bậc Đại Chúng Sanh đáp – Chính mấy ngàn con chó săn thuộc nòi giống tốt của đức vua!

Vua ngạc nhiên quá:

- Này hiền trí! Hãy nói rõ ràng cho ta nghe!

- Thưa bậc nhơn chủ! Tại nội cung hoàn toàn được bảo vệ này, không thể có chuyện hàng trăm đồng loại chúng tôi chui qua ống cống vào đây được. Một vài con thì có thể. Nhưng một vài con thì làm sao là thủ phạm của hai trăm bộ yên cương da? Chính chó của đức vua làm việc ấy.

Vua gật đầu:

- Có lý! Có lý! Ồ! Những việc tầm thường như vậy sao cả triều đình và ta không ai nghĩ ra. Ồ! Mà rồi sao nữa? Có bao giờ suy luận đúng mà thực tế là sai không hở hiền trí?

- Có thể có điều đó. Nhưng thực tế là đây: Đức vua chỉ việc cho cho người lấy một ít cỏ Dabha nghiền nát hòa với nước sữa, cho những chó ấy uống, nó sẽ mửa ra những miếng da. Những loại da đã thuộc, đánh bóng kỹ lưỡng làm yên cương, vào bụng năm ba ngày vẫn chưa tiêu hóa được.

Nhà vua y lời sai người bắt chó, nghiền cỏ Dabha và nước sữa cho uống. Quả nhiên nó mửa ra những miếng da.

Nhà vua phục quá, tán thán:

- Cao minh thay bậc hiền trí! Sự xử kiện của ngài không thua gì một bậc chuyển luân. Ta rất bằng lòng và lấy làm cảm phục vô cùng.

Đến đây thì đức vua chẳng còn một chút gì để kiêu ngạo nữa, ngài quỳ xuống đảnh lễ bậc Đại Chúng Sanh rồi trang trọng dâng một chiếc lọng trắng, phẩm vật biểu lộ sự tôn kính vô hạn.

Bậc Đại Chúng Sanh thuyết một thời pháp nói về vương đạo, khuyến hóa đức vua rồi cho thọ trì năm giới. Cuối cùng kết thúc bằng lời kệ:

“Dòng dõi Sát-đế-lỵ

Chiến thắng vạn hùng binh

Còn khó hơn thế nữa

Tâm, ý giữ quân bình

Hãy hành trì chánh pháp

Rạng rỡ như vầng dương

Trời người đều an lạc

Tối thượng một con đường.”

Bậc Đại Chúng Sanh trao chiếc lọng trắng lại cho đức vua rồi từ giã. Nhưng đức vua đã thành khẩn lưu lại, lấy lễ quốc sư phụng dưỡng ngài, lại truyền cho muôn dân phải biết tri ân và biệt đãi chó trong nước.

Thiên pháp được tồn tại mười ngàn năm ở xứ này.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/09/2016(Xem: 5726)
Vào cuối đời Tây Tấn, vua Huệ Đế ngu tối, việc triều chính đều do hoàng hậu Giả thị chủ trương. Giả hậu là người nham hiểm, lại biết quyền biến đởm lược, mưu giết các thân vương, phế bỏ Thái tử. Triệu Vương Luân bèn phẫn uất, cử binh giết Giả hậu, truất phế vua Huệ Đế mà tự xưng lên làm vua. Các thân vương khác thấy vậy cũng dấy binh tranh giành lẫn nhau, cốt nhục tương tàn, làm cho nhà Tấn suy yếu.
22/08/2016(Xem: 4655)
Sáng hôm nay trong thinh lặng của một sáng chủ nhật mùa đông, tôi muốn dành tâm trí thảnh thơi để viết vài hàng trả nợ cho cô bạn tí hon ngày xưa. Nợ vì tôi cứ hẹn sẽ viết cho nàng. Gọi là bạn nhưng chưa bao giờ nói chuyện, gọi là bạn vì học cùng trường. Tí hon vì nhỏ hơn tôi ba tuổi. Từ nhỏ, tôi có một tật rất xấu, tôi xem ai nhỏ tuổi hơn tôi là con nít. Vì sao chỉ hơn vài tuổi mà khi nào tôi cũng có cảm tưởng như mình đứng rất cao để nhìn xuống những người tí hon này!
11/08/2016(Xem: 4259)
Nó không biết chính xác năm nay mình bao nhiêu tuổi, chỉ nghe sư thầy nói nó ở chùa đã 12 năm với cái tên Quảng Chân Tâm. Tất cả những đứa trẻ ở chùa ngoài tên đời do cha mẹ đặt, sư thầy đều cho pháp danh với chữ Quảng đứng đầu.
03/08/2016(Xem: 37165)
Nhà thơ triết gia Phạm Công Thiện [1941 - 2011] qua đời năm 2011 tại Houston, nhưng chuyện kể, các bài viết về anh đã nhiều lầm lạc : Người viết : anh bỏ áo tu hành lấy cô vợ người Pháp, theo Thiên Chúa Giáo, kẻ khác viết : anh không hề có một mảnh bằng kể cả bằng tú tài mà dạy Triết Học Viện Đại học Sorbonne, mười lăm tuổi anh đọc và viết hàng chục ngôn ngữ, mười lăm tuổi anh dạy trung học, hai mươi tuổi anh là khoa trưởng khoa Khoa Học Nhân Văn, Đại Học Vạn Hạnh Sài Gòn, anh là triết gia không cần học một ai ? Dạy Triết học tại một Đại Học Pháp mà không cần một văn bằng nào ?
25/07/2016(Xem: 5321)
Người đàn bà đến bên cửa sổ ghé mắt nhìn ra ngoài trời. Qua lớp mưa mù dầy đặc trắng xoá ngoài kia bà chẳng nhìn thấy được gì ngoài những tia chớp xé toạt không gian kèm theo hàng loạt tiếng sấm như long lỡ đất trời. Thời tiết chiều nay quá xấu, xấu hơn người ta đã dự đoán và xấu hơn sự suy nghĩ của Quang, đứa con trai lớn của bà. Đã mấy tháng rồi nó mới có dịp bay về thăm bà vậy mà hôm nay trời lại mưa bão quá chừng! Trước khi lên máy bay nó còn gọi báo cho bà biết: - Bên đây thời tiết đẹp lắm má! Mong rằng khi con bay sang đến Cali thì trời quang mây tạnh, con sẽ chở má đi ăn và ở chơi với má đến tối mới về lại khách sạn.
06/07/2016(Xem: 8710)
Hôm nay là ngày 10 tháng 6 năm 2015, tại thư phòng chùa Viên Giác Hannover, Đức Quốc, tôi bắt đầu viết tác phẩm thứ 65 của mình với tựa đề là “Nước Úc trong tâm tôi” để sang năm 2016 sẽ xuất bản và ấn tống. Tác phẩm nầy được viết trong mùa An Cư Kiết Hạ lần thứ 31 của năm Ất Mùi, nghĩa là từ năm 1984 đến nay (2015) cứ mỗi năm ba tháng như vậy, Thầy trò chúng tôi có trọn vẹn 3 tháng an cư tại chùa Viên Giác thật là an lạc. Chương trình mỗi ngày được bắt đầu từ 5 giờ 45 sáng. Đại Chúng vân tập nơi Tổ Đường để xá Tổ, sau đó lên Chánh Điện, hô canh và tọa thiền 15 phút. Sau khi xả thiền, Đại Chúng bắt đầu trì tụng Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm, phần giữa của thời khóa có kinh hành niệm Phật ba vòng, tiếp đó lạy danh hiệu của chư Phật, Bồ Tát và Thánh Chúng độ 35 lạy. Sau thời công phu khuya ai về phòng nấy để nghỉ ngơi hay hành trì tiếp, hoặc tập thể dục. Đúng 8 giờ sáng là giờ điểm tâm của Đại Chúng, ai nấy đều tỉnh thức trong lúc dùng sáng, không nói chuyện, mà câu chuyện hằng ngày chỉ được
13/06/2016(Xem: 4421)
Hoa Lan nhất định không đầu hàng ngẩng mặt than thở: “Đời là bể khổ, tình là giây oan“ như cụ Tố Như đâu. Hoa Lan phải tâm tâm niệm niệm cột vào tâm câu Nhất thiết duy tâm tạo, khổ hay vui đều do cái đầu và bàn tay năm ngón của ta điều binh khiển tướng. Hoa Lan sẽ kể về nỗi khổ, niềm đau của thế gian trong trường thiên Tỵ Nạn Tình Duyên, một vấn nạn trong cuộc sống lứa đôi, trong vòng ái ân, sinh tử. Nỗi khổ chúng sanh chỉ cần khoanh vùng trong hai chữ tỵ nạn cũng đủ làm ta khiếp vía. Nào tỵ nạn cộng sản, con rơi của tỵ nạn chính trị, cháu rớt của tỵ nạn kinh tế, những đề tài ấy nhắc đến đã đủ ù tai hoa mắt và cũng chẳng phải là sở trường của mình, Hoa Lan sẽ kể về đề tài tỵ nạn tình duyên, nơi đã đi, đã đến và đã về.
01/06/2016(Xem: 13649)
Bài này được viết như một ghi chú cho Thiền Tông, để như một cách tiếp cận đơn giản… và hy vọng, cũng là một ghi chú cho rất nhiều pháp khác của nhà Phật, kể cả Tịnh Độ. Bởi vì, Thiền Tông là pháp môn cốt tủy nhất, trực tiếp nhất, không qua bất kỳ phương tiện nào khác, và cũng có thể dùng làm chiếc cửa lớn cho tất cả các pháp khác.
31/05/2016(Xem: 21008)
Chuyện xảy ra ở Việt Nam, nhưng lại bắt đầu từ bên Mỹ. Số là, vào khoảng thời gian năm 1956, có một kỹ sư Hoa Kỳ tên là Frank M.Balk. Chàng kỹ sư này suốt đời chẳng biết gì về cái xứ bé nhỏ xa xôi tận vùng Đông Nam Á tên gọi là Việt Nam cả.
27/05/2016(Xem: 6607)
Bao nhiêu năm ao ước cho đến hôm nay tôi mới có duyên lành được hành hương về Tây Trúc - Tây Trúc hay Thiên Trúc là tên gọi trước đây của xứ Ấn Độ. Trong phái đoàn tôi đi có nhóm Sợi Nắng và các Phật tử đến từ Canada cũng như Hoa Kỳ. Về chư Tăng thì có thầy Tánh Tuệ - nhà thơ Như Nhiên. Thầy là người từng sống và học tập ở Ấn Độ suốt bảy năm nên thầy nắm rất rõ về lịch sử, địa lý, phong tục tập quán... của người Ấn Độ. Cũng chính vì thâm niên như vậy nên nước da thầy rám nắng và người ta thường gọi thầy với cái tên rất gần gũi là "thầy cà-ri". Ngoài ra, phái đoàn còn có thêm sư cô An Phụng và sư cô Huệ Lạc
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]