Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

09. Bí Mật Võ Đạo

01/11/201204:11(Xem: 8411)
09. Bí Mật Võ Đạo
NGƯỜI TRỒNG HOA VÀ CHÀNG TU SĨ
Tác giả: Minh Đức Triều Tâm Ảnh

Bí Mật Võ Đạo


Tajima lấy tấn, loang kiếm một đường theo thế Yogo rồi thu kiếm đứng bất động giữa làn mưa tuyết. Mắt y nhòa đi nhưng óc y tỉnh thức cao độ. Y bắt đầu thực hành yếu chỉ nhập môn thượng thừa tâm pháp: Chuẩn bị đi vào trạng thái này là loại bỏ các tư niệm, tạp niệm, để tâm trôi chảy thong dong như đám mây mùa hạ, như dòng nước mùa xuân...

Bóng người in giữa ánh tuyết mang đường nét cô đơn và vĩnh cửu như bức tranh chấm phá của một họa gia Sumiye. Tuyết vẫn rơi từng hạt như bông. Tajima vẫn đứng tịch nhiên như đã hóa thạch. Cây cối trút hết lá, chơ vơ như nhìn ngắm nỗi phế hưng cô liêu của trời đất. Những đám mây thấp, đục, ùn ùn từ đỉnh Phú Sĩ sơn kéo về phương đông. Trời lại nổi gió.

Bấy giờ là vào tiết đại hàn, khô se, lạnh.

Phật giáo kể từ hời Đức Khâm Minh Thiên hoàng, thế kỷ thứ VI, có mặt ở xứ sở này, đã hiển lộ sinh lực vĩnh cửu của nó bằng tất cả những nét quang minh rực rỡ. Ngót một thiên niên kỷ, từ giới quý tộc cho đến lớp sĩ phu, đại chúng, đã thấm nhuần giáo lý trí tuệ và từ bi cao cả này, nên mọi sinh hoạt tinh thần và vật chất của xã hội đều được thăng hoa. Tuy thế, sự thăng hoa đúng độ phải được kể từ thời triêu dương của Thiền tông, tức là khoảng đầu của thời đại Kiếm Thương, tiền bán thế kỷ VII đến tiền bán thế kỷ XIV. Và cao độ của nó thì được tỏa rạng từ một chân dung: Tukuan đại sư, hậu bán thế kỷ XVI.

Người ta bảo rằng: “Cùng tức biến, thịnh tức suy”. Phật giáo quý tộc ở giai đoạn này được quá nhiều ưu đãi của triều đình đã trở nên mục ruỗng vì danh lợi, quyền lực, kéo theo cả tòa nhà Phật giáo nguy nga đồ sộ sắp bị sụp đổ. Khắp nơi, khó tìm ra một bậc xuất gia phạm hạnh đúng nghĩa. Tăng chúng thì vợ con hầu thiếp đùm đề hoặc bước vào những phạm vi sinh hoạt không phải là của mình. Nhãn hiệu Thiền tông được treo la liệt từ núi non đến thành thị, những bảng hiệu quảng cáo rẻ tiền mà thực chất là chốn chợ búa đổi lợi, mua danh! Cung đình trụy lạc, tranh giành phe nhóm, quyền lực, bè đảng là một số tăng sĩ đã lỡ bán linh hồn cho quỷ!

“Phật giáo luôn luôn tự cứu mình!” Đấy là chân lý được rút ra từ lịch sử. Nên một đêm kia, có một nhà sư xuất hiện ở cửa thành tây, đột nhập vào hoàng cung lấy đi ba mươi cái thủ cấp. Trong đó có hai mươi quan đại thần, năm vị hòa thượng, một hoàng hậu và bốn cung nữ. Mấy hôm sau, lãnh chúa các phương dấy loạn. Lại một lần nữa, một nhà sư, với hành tung kỳ bí, trong bốn đêm lấy thêm tám thủ cấp của tám vị lãnh chúa cát cứ tám phương! Cả nước rợn người, tóc dựng ngược. Thế là chấm dứt loạn lạc. Dường như sau đó mấy năm, vua, quan, tăng sĩ sáng hôm sau ngủ dậy thường đưa tay sờ lên cổ mình, xem thử cái đầu có còn ở đấy hay không!

Đêm tối qua đi, trời lại sáng, Phật giáo bắt đầu chấn hưng. Tăng sĩ được tuyển chọn bằng cách thi cử, phát nguyện. Loại bỏ bớt những hình thức được xem như là ngoại đạo, tà giáo. Kinh điển được kết tập lại.

Phong trào đang rầm rộ ở khắp nơi thì ở núi Tỷ-duệ, đông nam Kyoto, bỗng xuất hiện một nhà sư to lớn, mặc y đỏ chói màu san hô, tự xưng là hậu thân của đại sư Truyền Giáo (Deng-yô-daisi), vốn là vị khai sơn Thiên Thai tông của núi này. Nhà sư giảng đạo suốt sáu tháng, không ăn, không ngủ, chỉ ngồi thiền và uống nước lạnh. Người ta đồn rằng, như loài chúa của muôn thú, với tiếng rống của sư vương, nhà sư với uy lực dõng mãnh của kiến thức lẫn sở chứng đã làm cho cử tọa thính chúng bủn rủn, tê liệt... Tư tưởng các giáo phái đối lập, sai khác đều chợt bị rã tan hoặc lung lay tận nền móng. Cao tăng, danh sĩ bốn phương trời đổ xô đến luận tranh, tham vấn, cầu đạo..., nhưng đột nhiên, nhà sư lại biến mất, kéo theo ba mươi người đồ đệ.

Người ta ghép các dữ kiện lại với nhau rồi nhất quyết khẳng định rằng, nhà sư xuất quỷ nhập thần lấy thủ cấp bao người và nhà sư giảng đạo sáu tháng không ăn không ngủ, chỉ là một. Và ba mươi người đồ đệ đi theo chẳng phải là để được truyền tâm ấn Phật học, mà chắc chắn là chỉ vì bí kíp võ học mà thôi!

Bí kíp võ học lại càng lôi cuốn tâm địa con người hơn. Ai ai cũng mong muốn mình có được một phần nào bản lãnh thần sầu quỷ khốc của nhà sư vô danh kia. Thế là một cuộc lên đường chưa từng thấy trong lịch sử võ học bắt đầu...

Tajima vốn là thanh niên đệ nhất kiếm thủ ở Kyoto sau lần tuyển chọn cuối năm tại các võ đường, dĩ nhiên chàng cũng bị cuốn theo lớp sóng tràn tìm về núi Tỷ-duệ, với chí nguyện lớn là sẽ khuôn phò xã tắc bằng tay kiếm của mình. Đêm kia, sau khi lạc mất toán người bí mật trong thung lũng Nưu-dực hiểm trở, sáng ngày, chàng lần mò qua Tây Lũng đạo, một sơn đạo cheo leo hiểm trở, và bắt gặp một chuyện kỳ bí lạ lùng. Ở Đây, Tajima chứng kiến một trận đấu kinh hồn giữa chừng năm mươi tay kiếm thủ, gồm cả tăng lẫn tục nhưng đều được hóa trang một cách khéo léo. Họ đang giết nhau để tranh giành một mảnh cà-sa đẫm máu. Người cuối cùng được sống sót, dĩ nhiên là tay đại bản lãnh nhất trong bọn, lấy được bí kíp võ học rồi vọt đi như giông như gió. Tưởng thế là xong, ai ngờ một chiếc bóng như tự trời sa xuống, thò chiếc gậy trúc cản đường lại...

Cả hai đứng sững nhìn nhau.

Tajima cũng nín thở hồi hộp theo dõi.

Kẻ chiếm được manh áo cà-sa trùm mặt bằng vuông vải đen, để lộ hai tia mắt loang loáng. Kẻ thò cây gậy trúc cản đường là một nhà sư phong trần, rách rưới, râu tóc tua tủa, sau vai đeo một đãy ta bà.

- Buông kiếm xuống, sư đệ! Và hãy quăng luôn cái manh áo cà-sa kia xuống vực thẳm. Máu đã đổ quá nhiều rồi. Hãy theo ta về núi mà sám tội đi thôi!

Giọng nhà sư nghiêm lạnh mà vẫn đầy vẻ thiết tha từ ái. Nhưng kẻ bịt mặt hừ một tiếng khô khốc, đi liền với thế kiếm kinh hồn, trong một lúc phủ chụp, uy hiếp, tấn kích luôn mười trọng huyệt. Nhà sư thoáng tái mặt nhưng rồi đã chậm rãi, bình thản bước tới một bước, bước lui hai bước, bước phải một bước, bước trái một bước là đã tránh khỏi dễ dàng những tử chiêu của đối phương.

Nhà sư giọng cũng không lớn hơn, cũng không nhỏ hơn.

- Buông kiếm xuống, sư đệ! Dẫu sư đệ đã thay đổi rất nhiều võ học của sư môn, dẫu sư đệ có thông minh và tế vi cách mấy khi tấn, tảo, chiết, chuyển, nhưng chỉ cần một căn bản của bộ vị không thay đổi là ta cũng nhìn rõ gốc nguồn. Giọng nhà sư chợt thiết tha hơn - Sư đệ ơi! Sư đệ nỡ lòng nào phản bội di huấn của tổ sư? Nỡ lòng nào sắt đá trước cảnh đầu rơi máu chảy? Chỉ vì một khởi niệm bất thiện, môt khát vọng mưu đồ là tay sư đệ đã chàm đen mấy lớp? Đã đọa sa mấy tầng địa ngục?

Kẻ bịt mặt cất tiếng cười man rợ. Kiếm lại nhoáng lên. Kiếm lại vụt tắt. Cây gậy trúc của nhà sư chậm rãi chập chờn di động, mà cũng dường như bất động giữa hư không - đã là bức tường kiên cố bất khả xâm phạm! Nhà sư nói như ngâm:

- Dẫu sát nhất miêu,

Không cứu vạn thử!

Dẫu cứu vạn thử

Không sát nhất miêu!

Ai làm hề!

Ai chịu hề!

Ta giết!

Kiếm trên tay tên bịt mặt bối rối, lúng túng rồi dừng tắt vĩnh viễn. Và Tajima, có lẽ suốt đời chàng cũng không quên được thảm cảnh hãi hùng. Tay kiếm bịt mặt đứng sững như trời trồng, tròng mắt trắng dã lồi ra, biểu hiện một ngạc nhiên cao độ. Ôi! Khó mà có thể thấy được nhà sư sử dụng cây gậy trúc như thế nào? Động hay bất động? Cho đến khi tên kiếm thủ chết đã lâu mà bóng cây gậy trúc vẫn nằm giữa hư không, nguyên chỗ cũ như chưa hề di động bao giờ!

Nhà sư cúi xuống, quăng cả người, cả manh áo cà-sa xuống vực thẳm rồi lướt đi như vệt khói.

Tajima bây giờ mới thở ra nhè nhẹ. Chàng lặng người đến không còn cảm giác nữa. Chàng đâu có ngờ rằng võ học có thể bước đến những chân trời như vậy!

Như sực nhớ ra, chàng lần xuống vực thẳm. Ngạc nhiên làm sao, chỉ thấy xác tên kiếm thủ, nhưng không tìm ra manh áo cà-sa. Vung vãi xung quanh chỉ có mấy tờ kinh rách nát, số mất chữ, số nhòe nhoẹt. Những phần đọc được, Tajima cố chắp lại với nhau. Cuối cùng chàng cũng mơ hồ hiểu rằng, đây là yếu quyết của một môn võ thượng thặng. Chàng bèn tìm đến một nơi khuất tịch để luyện tập.

Nhưng bao tháng bao ngày chàng cũng không đi lọt qua cửa. Tâm ý cứ qua lại lăng xăng. Nó chẳng “thong dong như đám mây mùa hạ, như dòng nước mùa xuân”. Nếu có yên lắng thì cũng không ở trong trạng thái từa tựa như yếu chỉ: “Hành giả phải tức khắc thấy rõ các trạng thái đồng dạng ở nơi thân và ở nơi tâm. Thân bất động không phải là tâm bất động và ngược lại. Coi chừng một tâm lý mỏng như màn sương hiện lên ở đây. Nó biến cảm thức thành đối tượng và đối tượng thành cảm thức. Dường như không còn năng, sở, chủ và khách, nhưng trạng thái ấy không phải là bất động. “Bất động” phải là trạng thái cao nhất của “sinh động”. Nó chuyển động quanh trục của một tâm điểm “không hề dao động”. Ở đây, nó tỉnh thức và bén nhạy như một tấm gương phản chiếu. Hình ảnh nọ kế tục hình ảnh kia, trong sáng, rõ ràng và không lầm lộn. Bất động chẳng phải là một sinh thể vô hồn; có thể là vô tâm, vô niệm nhưng không phải là hư vô trống rỗng. Vô hay hữu đều là chướng ngại che mờ giác tánh”.

Tajima lại thở dài. Thật khó mà lãnh hội điều đó bằng tri thức. Nhưng nếu không thể lãnh hội bằng tri thức thì lấy gì để thể nhập, để biến thành khí huyết, để thông vận tự nhiên như hít thở khí trời?

Và chàng chợt đâm ra hoài nghi: đây là yếu quyết võ học hay là yếu chỉ Phật học?

Tajima chống kiếm, ôn nhẩm lại: “Thế nào là động mà bất động? Hãy nhìn bánh xe quay quanh trục xe, bánh xe chuyển động mà trục xe bất động. Cũng vậy, phải bám trụ vững chắc, kiên định vào một tâm điểm. Tâm điểm này muốn gọi là Phật địa, chơn địa, tuệ địa hoặc danh từ gì tương tự như thế, trước khi ứng xử, tiếp vật, đón đỡ, ghi nhận các pháp từ thế giới xung quanh đến với ta. Bất động không phải là cái để tìm kiếm, bắt nắm. Nó là cái để mà liễu tri, giác hiểu. Tâm điểm bất động này nó không ở ngoài, không ở trong. Không phải hữu thức, chẳng phải vô thức. Chẳng thể nói có, chẳng thể nói không. Không nỗ lực, chúng tác ý và biến hóa. Không lộ diện, chúng hiện hữu, chi phối và quyết định tức thời, phản ứng đúng lúc. Nó làm cho dòng vận chuyển được liên lỉ và làm cho sinh lực chảy trôi không gián đoạn. Chính ở đây ta chiếm thế thượng phong, tuyệt đối quyết định trò chơi sinh tử! Ôi! Rõ ràng bài tâm pháp đã ở ngoài sự lãnh hội thông minh nhất. Càng nghe, càng rối; càng thực hành, càng loạn. Động mà bất động? Bất động mà động? Bất động mà tỉnh thức chứ không phải là cái ngưng đọng vô tri, đối lập với dòng vận hóa. Nhưng ở đây sao lại là: “Sự vắng bóng tuyệt đối của hữu thức, của ý tưởng, của tư niệm?”

Tại sao lại thế được? Và tại sao lại như tấm gương trong sáng, chụp bắt (thủ) và buông xả (xả) là hai tác động đồng thời, không gián cách, không thời gian? “Nó ở trong khoảnh khắc sinh và diệt của ý giới nhưng ý giới không phát lộ được y. Nó nắm ý giới như người kỵ sĩ lão luyện cầm cương ngựa trên đường thiên lý. Đây chính là tâm điểm, từ đó khởi sinh sự tinh nhuệ, mẫn tiệp, sự linh hoạt cần thiết nhất định. Nó động, ta động. Nó tịnh, ta tịnh. Không trước ý, ta biết hoàn toàn (toàn giác). Không khởi động, ta làm chủ nó.”

Tuyết bắt đầu rơi nặng hạt. Tajima đưa mắt nhìn về cổ trấn Osaka, con sông Yodo như chìm trong biển sương mù. Mây, bầu trời, sông nước là một. Tuy là một nhưng nó hàm tàng sinh hóa. Chính là sinh hóa. Yếu chỉ chính là điều này chăng?

- Nó là cái một tâm điểm từ đó phát sinh vạn hữu. Tâm là chủ, là nội công ? Pháp là ngoại giới, là ngọn, là chiêu thức?

- Càn thỉ quyết! (que cứt khô)

Ai mà mở giọng khinh bạc đến thế? Ngạc nhiên, Tajima quay lại. Trước mắt chàng là một du tăng, áo phanh hở ngực đầy lông lá; chiếc nón mê rách tả tơi không gói kín chỏm tóc muối tiêu. Bầu rượu (có lẽ là bầu nước chứ) treo toòng teng trên đầu gậy trúc. Đôi hài cỏ xơ xác như vừa qua những chặng sơn khê hồ hải. Râu ria tua tỉa. Và đặc biệt là nụ cười toe toét phô hàm răng trắng ngọc hiền lành.

Tajima nhìn sững. Y có phải là nhà sư đã hạ sát tên kiếm thủ bằng thế trúc bất động kỳ dị hôm ở Tây Lũng đạo? Nhưng trông y sao lại có vẻ phong trần hơn và hiền lành hơn?

Nhà - sư - gậy - trúc - bây giờ ta gọi thế - mắt chợt nhấp nháy, bước tới một bước, bước lui hai bước, một tay chỉ trời, một tay chỉ vào bụng mình, nói như ngâm:

- Lòng tuyết rơi

Cô liêu đời kiếm sĩ

Bóng một Phú Sĩ sơn

Ngủ quên trong hạt bụi

Đứng đây chi?

A! Kỳ lạ! Tajima thầm nghĩ. Xem bộ pháp thì đúng là Nhà - sư - gậy - trúc, nhưng phong thái và lời thì đúng là nhân vật truyền thuyết: Tây Hành đại sư - kẻ đã có công sáng tạo một thể thơ vượt mọi khuôn thước, tiền thân của thơ Haiku mà sau này trở thành sở đắc của Ba Tiêu. Dòng suy tưởng của Tajima vẫn không gián đoạn. Hơi thơ được đi ra một cách tự nhiên, dường như chưa qua sự khúc xạ của trí óc. Y muốn dẫn dụ điều gì? Nghĩ gì nói nấy, một cách vô tâm (mushin) của Đạt Ma? Một cách vô niệm (muga) của Huệ Năng?

Nhớ đến thế trúc nơi Tây Lũng đạo dạo nào, Tajima cung tay tham bái:

- Bạch đại sư! Xin ngài hoan hỷ chỉ giáo cho thế nào là động mà bất động? Bất động mà động?

- Tầm bậy. Nhà sư huơ gậy trúc lên cười to - Ai biết gì chúng nó. Và biết làm gì. Hãy nghe thơ đây:

- Tuyết rơi nhiều

Chân ta về mây trắng

Mùa thu bay!

Thực tại nào bất động ở đây? Tuyết? Chân ta? Mây trắng? Mùa thu? Tất cả đều chuyển động. Phải chăng chẳng thể có cái bất động? Sự vĩnh cửu của một hạt tuyết, một đám mây chỉ là một cái nhìn đầy khinh bỉ phóng rọi vào sự chuyển dịch tử sinh của hiện tượng giới đấy thôi. Tìm một tâm điểm bất động để trú vào đấy là một nỗ lực vô ích và phù phiếm thế nào!

Nhà - sư - gậy - trúc nở nụ cười méo mó vẻ nhạo báng, tháo bầu rượu (có lẽ là bầu rượu rồi) tu một hơi, khà thành tiếng:

- Một bầu rượu,

Trăm năm say mộng hóa

Giọt đang rơi!

Tajima dở khóc, dở cười. Nó chẳng liên hệ gì câu hỏi của chàng. Lời thơ tuôn phát ra, có thể là một thực thể vừa bước ra từ lòng tuyệt đối, từ cái tâm linh sâu thẳm nào đấy, nhưng có ích gì cho chàng? Dẫu nó có là thực tại, là tài hoa thì vẫn toát ra cái gì là tự ngã, kênh kiệu và đa tri.

Khi Tajima vừa quay lưng bước đi thì một hạt rượu rơi bắn vào huyệt kiên tĩnh. Một cảm giác tê rần khó chịu lan nhanh trong tủy sống. “Bị y điểm huyệt rồi”, chàng thầm nghĩ. Nhưng chẳng biết y có giết ta không? Nghĩ đến cái thế trúc bất động nơi Tây Lũng đạo, chàng lại rùng mình. “Sát nhất miêu, cứu vạn thử”; hay y đã biết ta xuống vực sâu lấy “bí kíp”?

- Cuộc đời ôi!

Lang thang gió bụi

Hư không ôi!

Còn ta trần trụi,

Gậy trúc về

Đâu nguồn, đâu cội?

Nhà – sư - gậy – trúc hát to như ngâm, chốc chốc vẳng lại nụ cười cô đơn và xa vắng. Có đúng y là Tây Hành đại sư? Nhưng mà... sao vậy kia? Tây Hành đại sư vốn là một cao thủ tuyệt vời của triều đình Kamakura, thế kỷ thứ XIV! Nhưng bây giờ năm nào? 1630! Ta còn tỉnh hay mê? Ta cũng đang bị điểm huyệt đây!

Tajima lặng người, quay đầu lại. Hóa ra chàng không bị điểm huyệt, tất cả đang bình thường. Hít một hơi cho đầy chân khí, Tajima sải cước lực vân hành. Chàng cương quyết dò la tin tức của Nhà - sư - gậy - trúc bí mật.

Đến cổ trấn Osaka thì trời tối đã lâu. Tuyết ngập đường. Nhà nhà đóng cửa. Tajima thấy từ cuối đường, Nhà - sư - gậy - trúc đang bước vào một căn lầu màu xanh, đèn leo lét tỏ. Tại sao y lại bước vào đây? Tajima suýt nữa bật lên câu hỏi.

- Ai đấy? Tiếng từ trong vọng ra - Mùa tuyết rơi, “lầu xanh” không nhận khách. Nếu là giang hồ võ đạo lỡ đường thì xin ghé qua chùa Đa Môn, bảy dặm phía bắc thị trấn.

Tajima lần nhẹ đến, đôi mắt mở lớn cực độ.

- Eguchi! Tiếng Nhà - sư - gậy - trúc - Nàng còn nhớ đến tên võ tướng vô phước bạc hạnh cầm kiếm xuyên thủng trái tim mình bên đền Quan Âm đại sĩ ở Kyoto?

Im lặng một lát.

- Saiyo! Là người đấy chứ? Tiếng thánh thót trong như pha lê, cũng có thể như tiếng chim hót - Ngươi đã phủi bụi, đã rời bỏ cõi ô trọc từ lâu, đã thành một cao tăng thạc đức, thành một thi tăng nổi tiếng cửa thiền rồi đó chứ?

- Là ta đấy, Eguchi nàng hỡi! Ta là cát bụi nên không bao giờ còn tan theo cát bụi. Cao tăng thạc đức, lãng đãng phiêu bồng thi tăng, kiếm sĩ, tục khách đều có đủ ở nơi ta. Cũng như nàng vậy thôi, gần hai trăm năm nay, nàng đã mười lần hóa thân làm kỹ nữ, nhưng đối với ta nàng vẫn cứ là Quan Âm đại sĩ thuở nào!

Tajima hãi hùng, thò tay véo vào da thịt mình. “Ta vẫn còn tỉnh đây! Ta vẫn còn sống đây!” - Tajima lẩm nhẩm.

- Saiyo! Hãy nghe đây! Giọng người con gái bây giờ chợt trở nên oai nghiêm, sắc lạnh - Chuyển động và bất động hai tướng bổn lai là không. Ta chuyển động mà bất động. Ngươi chuyển động mà chẳng thể bất động. Ta có hóa thân mà không hóa thân. Ngươi hóa thân mà bị thân hóa. Ngươi như hạt bụi tung vô định vào giữa cơn lốc xoáy của cơ, của cảnh, của duyên, của nghiệp. Ngươi bị cuốn đi mù mịt. Tự do ở nơi ngươi là lớp ngụy trang giả tạo, dối lừa được ai? Đức Thích Ca đại sĩ đêm ba canh nằm nghỉ nghiêng lưng chưa được nửa canh, ngày sáu khắc không thèm sống tự do, tự tại. Ngài sống giữa buộc ràng, câu thúc, lễ nghi, trang nghiêm thân, trang nghiêm giới để giáo hóa sinh quần. Còn ngươi, hỡi Saiyo! Ngươi được mấy thành hỏa hầu? Cả thầy ngươi cũng thế, gã Tukuan ở núi Tỷ-duệ hôm nào!

Chợt nhiên, người con gái cao giọng, đầy uy vũ:

- Kiếm tuốt trần

Và địa ngục

Hãy bước tới,

Không có ngoảnh đầu,

Rồi dưới chân, sen sẽ nở hoa!

Thơ của ngươi đấy, Saiyo! Và ngươi cứ bước tới, thầy ngươi cũng vậy. Và địa ngục sẽ chờ đón các ngươi. Hoa sen sẽ vĩnh viễn không nở trong lửa đồng sôi, mà nó vươn lên từ đống bùn ô trược. Nó mọc đấy, nó vươn lên đấy. Còn ngươi là gì? Đừng đồng hóa bản năng và tự tại. Đừng lấp lửng giữa hai bờ sinh tử. Mới uống vài ngụm mà tưởng là đã cạn được dòng nước đầu nguồn. Hãy đi đi thôi! Hãy ra đi như hạt bụi và trở về như hạt bụi. Ở đây không có chỗ cho ngươi!

Saiyo vẫn cứ léo nhéo cái giọng si tình:

- Eguchi nàng hỡi!

Khi tôi chưa bỏ cõi đời,

Tim nàng sao nên rắn?

Sao lại hắt hủi tôi,

Chỉ một đêm trần gian huyễn mộng!

Người con gái lầu xanh cũng đáp lại bằng thơ:

- Ngươi là cát bụi trần gian

Thì vẫn là cát bụi trần gian

Ta khuyên ngươi đừng hư tưởng

Đừng tâm niệm khăng khăng

Coi trần gian là huyễn mộng.

Cuộc đối thoại kỳ lạ chìm vào yên lặng. Tajima như rơi hẫng vào một thế giới nào.

Khi Tajima ngước đầu lên thì Tây Hành đại sư (Saiyo) không còn ở đấy nữa. Và căn lầu màu xanh như biến mất trong đêm.

Bây giờ thì chàng biết rõ nhà sư xuất hiện cứu đời và nhà sư ở núi Tỷ-duệ chỉ là một, chính là Tukuan đại sư. Đây là một cuộc hóa thân hay thị hiện thế nào đó do một cái nhìn sâu thẳm khôn dò từ tâm linh thiền chứng. Sinh tử đối với họ là trò chơi. Dẫu chuyển động ba cõi sáu đường với những sinh hoạt lăng xăng, nhưng bao giờ họ cũng trú nơi cái bất động cao đại của chính mình, là thanh tịnh địa, Phật địa, giác tánh, như chơn... Ôi! Cái mà Tajima tưởng là bí kíp võ học, chỉ là nội dung tâm pháp của một thiền phái Phật học, nó không còn là thiền sơ thủy từ Đạt Ma lập cước từ kinh Kim Cương hoặc như Hoa Nghiêm, Lăng Già của các tổ đi sau, mà đã được dung nhiếp hoặc chắc lọc tinh hoa từ chư kinh, rồi biến nó thành ngôn ngữ, khẩu quyết hay nền tảng thuyết lý cho một tông phái.

Ôi! Đâu là bến bờ của võ học và đạo học? Hỏi vậy chứng tỏ ta bạc nhược kiến thức cùng sự nghèo nàn của tâm hồn. Thiền treo lưỡi kiếm trên đầu ta, và ta bước tới. Không có vấn đề sinh tử lẫn những tri thức phù phiếm ở đây. Một bước nhảy quyết định chẳng kể vực thẳm hay hư vô. Lửa bốc cháy ngùn ngụt ở trong tâm, và chỉ có một hành động duy nhất là xả kỷ. Chẳng có tí tẹo nào là tư dục và vị ngã. Thế là hoa sen nở trong lửa. Tukuan đại sư là hiện thân cho những lý giải bá vơ này! Ngài nói bằng máu! Chúng ta nói khô kiệt của tử thi. Những đệ tử của ngài, sau này, bước xuống cuộc đời, chẳng phải bằng đôi cánh của thiên thần mà bằng sự trần trụi của con người, bằng sự cô liêu từ sơ thủy; sẽ lang thang cùng với trời đất lang thang, trên con đường cứu độ vô thủy vô chung...

Tajima sau đó mất tích. Rồi chẳng biết có những tao ngộ thế nào mà chàng lại trở về kinh đô với mấy chục hiệp sĩ, dùng tay kiếm vô địch lật đổ triều đình Đức Xuyên tướng quân. Chàng ở lại đấy, huấn luyện cho chừng một trăm tướng quân, rồi lại biến mất, khoảng hậu bán thế kỷ XVII.

Mấy chục năm sau, người ta nói rằng chàng đã là một du tăng hành cước. Có lần chàng tìm đến căn lầu xanh thuở nọ; ở đây, chàng chẳng gặp Tây Hành, chẳng gặp đức Quan Âm đại sĩ mà chỉ thấy một bức tranh của Okyo Maruyana tạc hình đức Phổ Hiền hóa thân làm kỹ nữ; người kỹ nữ này vì muốn bảo trọng danh dự cho Tây Hành nên đã từ chối một đêm huyễn mộng của gã thi tăng lãng đãng này. Cuộc ứng đối năm xưa lại trở về với chàng. Rồi đột nhiên, bức tranh biến mất. Và nhà sư này nghe tiếng vọng tự lưng chừng trời, ngước lên thì thấy giữa hư không hiện ra một đường kinh hành bằng ngọc, nằm vắt ngang như một dòng sông thủy ngân. Và bóng một người phụ nữ lướt nhanh, từng đóa hoa trắng nối dài sau gót chân như những đốm sao. Tiếng nhạc bay bổng. Bây giờ thì đức Phổ Hiền đang ngự trên con voi trắng có những tiên nữ tùy tùng biến mất giữa đám mây lành rực rỡ...

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/01/2018(Xem: 4478)
40 Năm Ở Mỹ, sách của TT Thích Từ Lực
11/01/2018(Xem: 5124)
Vào những năm đầu của thập niên 2000, khi cây bút đang còn sung sức, tôi viết rất nhiều bài về danh lam thắng cảnh trên quê hương Nha Trang của mình để giới thiệu trên các báo và tạp chí khắp đất nước. Trong số đó, hiển nhiên là có bài viết về ngôi chùa đã lưu nhiều hình ảnh, dấu ấn kỷ niệm vào ký ức tuổi thơ của tôi với tên gọi thân quen mộc mạc: “Chùa Núi Sinh Trung”.
08/01/2018(Xem: 11304)
Hồi còn tại thế xưa kia Trên đường giáo hóa Phật đi qua làng Ngài đi cùng ông A Nan Khai tâm gieo ánh đạo vàng giúp dân. Đang đi ngài bỗng dừng chân Bước quanh lối khác có phần xa thêm Ông A Nan rất ngạc nhiên Vội lên tiếng hỏi. Phật liền giảng ra: "Này A Nan phía trước ta Có quân giặc cướp thật là hiểm nguy Sau ta ba kẻ đang đi Gặp quân giặc đó khó bề thoát qua!"
08/01/2018(Xem: 9490)
Ở bên Ấn Độ thuở xưa Nơi thành Xá Vệ, buổi trưa một ngày Gia đình kia thật duyên may Phật thương hóa độ, dừng ngay tại nhà, Tiếc thay chồng vợ tỏ ra Tham lam, độc ác, xấu xa, hung tàn. Hóa thành một vị đạo nhân Phật đi khất thực dừng chân trước thềm Ôm bình bát, đứng trang nghiêm, Anh chồng đi vắng, vợ liền nhảy ra Tay xua đuổi, miệng hét la
07/01/2018(Xem: 7796)
Sau mỗi lần có dịp viếng thăm các chứng tích như tượng đài, lăng mộ, viện bảo tàng, nhà lưu niệm, ..., của những nhân vật mà cuộc đời phần nào liên quan đến đời sống vật chất hay tinh thần, sự thịnh suy ,... của một nhóm người, một dân tộc, một vùng, một quốc gia,..., tôi ra về lòng những bâng khuâng với hai câu : Những người muôn năm cũ Hồn ở đâu bây giờ ? trong bài thơ Ông Đồ của nhà thơ Vũ Đình Liên.
21/12/2017(Xem: 3809)
Anh sinh ra và lớn lên ở miền gió cát khô nóng Phan Rang. Là một Phật tử thuần thành, lại được phước báu khi có đến hai người con trai xuất gia, nên nhân duyên đưa đẩy đã trở thành đạo hữu của tôi qua nhiều lần hội ngộ lạ lùng ở các thiền viện thuộc dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử. Kết tình đạo hữu với nhau đã gần mười năm rồi, mỗi lần gặp mặt, tôi và anh đều tay bắt mặt mừng, trò chuyện thân mật, nhưng người huyên thiên lúc đàm đạo là anh, còn tôi thì cứ chỉ biết gật gù, mỉm cười, họa hoằn lắm mới buông một đôi câu phụ họa. Anh quý mến tôi ở điểm đó.
15/12/2017(Xem: 6364)
Hương Lúa Chùa Quê" Bản Tình Ca Quê Hương của nhị vị Hòa Thượng Thích Bảo Lạc và Thích Như Điển. Sau khi đọc tác phẩm “Hương Lúa Chùa Quê” chúng con không dám mong ước giới thiệu sự nghiệp văn học, văn hóa cả đạo lẫn đời của nhị vị Hòa Thượng. Vì công trình tạo dựng sự nghiệp của các bậc xuất sĩ không nằm trong “nguồn văn chương sáng tác”. Vì xuyên qua mấy chục năm hành đạo và giúp đời, nhị vị đã xây dựng nhiều cơ sở Phật giáo đồ sộ trên nhiều quốc độ khác nhau như: chùa Pháp Bảo tại nước Úc; chùa Viên Giác và Tu viện Viên Đức tại nước Đức. Nhị vị cũng đã mang ánh Đạo vàng đến khắp muôn nơi, soi sáng cho bước chân “người cùng tử” được trở về dưới mái nhà xưa, để thấy lại “bóng hình chân nguyên”; dẫn đường cho những người chưa thể “tự mình thắp đuốc lên mà đi” được tìm lại “bản lai diện mục”. Đó mới gọi là “sự nghiệp” của bậc xuât sĩ. Điều nầy đã có lịch sử ghi nhận từ mạch nguồn công đức biểu hiện và lưu truyền.
15/12/2017(Xem: 87391)
Trải hơn 25 thế kỷ, Chánh Pháp của Phật vẫn được tuyên dương và lưu truyền bởi hàng đệ tử xuất gia lẫn tại gia, đem lại giải thoát và giác ngộ cho những ai học hỏi và thực hành đúng đắn. Chánh Pháp ấy là thuốc hay, nhưng bệnh mà không uống thì chẳng phải là lỗi của thuốc. Trong kinh Di Giáo, đức Phật cũng ân cần huấn thị lần chót bằng những lời cảm động như sau: “Thể hiện lòng đại bi, Như Lai đã nói Chánh Pháp ích lợi một cách cứu cánh. Các thầy chỉ còn nỗ lực mà thực hành… Hãy tự cố gắng một cách thường trực, tinh tiến mà tu tập, đừng để đời mình trôi qua một cách vô ích, và sau này sẽ phải lo sợ hối hận.” Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người. Ước mong giáo pháp của Phật sẽ được lưu chuyển qua những trang báo nhỏ này, mỗi người sẽ tùy theo căn tánh và nhân duyên mà tiếp nhận hương vị.
29/11/2017(Xem: 6647)
Trong loạt bài Kể Chuyện Đường Xa lần này, người viết đặt thêm tên cho mục này Vòng Quanh Thế Giới, để có cùng tên với loạt phóng sự sẽ đưa lên tvtsonline.com.au với nhạc hiệu mở đầu của bài “Vòng quanh thế giới” người viết sáng tác gần bốn thập niên trước đây. Từ năm 1990, chúng tôi đã bắt đầu viết bút ký với chuyến đi Bangkok (Thái Lan) và loạt bài cuối cùng là chuyến du lịch Âu Châu vào năm 2015.
27/11/2017(Xem: 4891)
Nếu chấp nhận thuyết nhân duyên của Đạo Phật thì có thể dễ dàng, giải thích cho mọi tình huống và mọi sự việc xảy ra trong cuộc đời nầy. Nhân duyên hay duyên sanh cũng tương tự với nhau. Đó là: „Cái nầy có cho nên cái kia có; cái nầy sanh cho nên cái kia sanh. Cái nầy diệt, cho nên cái kia cũng diệt theo“. Không ai trong chúng ta có thể biết trước được việc gì sẽ xảy đến cho mình về sau nầy cả; dầu cho chúng ta có cố gắng làm mọi việc tốt đẹp trong hiện tại; nhưng dư báo trong quá khứ, ai biết được thiện, ác còn lại bao nhiêu mà lường được. Chỉ khi nào nắp quan tài đậy lại trong kiếp nầy, thì lúc ấy ta mới biết được cái quả trong hiện tại là cái nhân như thế nào mà trong quá khứ của chúng ta đã gây ra và chính cái quả của ngày hôm nay sẽ là cái nhân cho ngày sau nữa.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]