Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

06. Mảnh Trăng Tiền Kiếp

01/11/201204:11(Xem: 8404)
06. Mảnh Trăng Tiền Kiếp
NGƯỜI TRỒNG HOA VÀ CHÀNG TU SĨ
Tác giả: Minh Đức Triều Tâm Ảnh

Mảnh Trăng Tiền Kiếp





Hoàng đế Mễ Sa thả lỏng dây cương cho con long câu chậm vó lại. Con lương mã tinh khôn đang phóng nước đại, chợt cảm thấy dây cương lỏng dần, vội hãm đà đổi sang nước kiệu nhỏ. Nhà vua như rã rời, ngựa cũng đã thấm mệt, thế mà bóng con thú lại biến mất lần nữa. Suốt một thời oanh liệt trên lưng ngựa, chưa lần nào ngài để kẻ thù trước mắt vuột khỏi, thế mà lần này, con hươu sao bé nhỏ lại như nhởn nhơ, bỡn cợt thật đáng hận vô cùng!

Nhà vua miên man suy tưởng mặc cho con tuấn mã chạy rủng rải theo lối mòn. Khi mở choàng mắt, nhà vua thấy một con suối, ngài khoan khoái vô cùng; vội xuống ngựa và vục đầu trong dòng nước mát. Khi ngẩng lên, thì bờ bên kia, một con hươu sao! Nhanh như cắt, hoàng đế vọt đến bên ngựa, chụp vội cây cung. Vừa mới giương cung thì con hươu sao đưa mắt tròn đen lay láy nhìn nhà vua rồi lại lủi mất. Thịnh nộ nhưng trầm tĩnh, nhà vua lại lên ngựa, phóng qua suối, đuổi theo chân con thú. Nắng chiều lấp lánh trên ngàn cây. Tiếng vó ngựa dồn dập thoảng động rồi chìm mất giữa đám lá rừng xào xạc.

Trời đã sẫm tối. Hoàng đế Mễ Sa lại một lần nữa chậm vó. Núi rừng trùng điệp vây quanh. Một vài bóng chim đập cánh uể oải. Hoàng đế chợt giật thót mình, lo lắng nhìn quanh. Mải đuổi theo con thú, nhà vua đã lạc mất đường về. Núi rừng lạnh lùng hoang dã. Đâu đây đã vọng tiếng hổ gầm.

Không biết trải qua bao nhiêu giờ khắc căng thẳng lầm lủi dưới bóng đen càng lúc càng dày sâu, nhà vua thấy xa xa thấp thoáng có ánh đèn. Theo chân ngựa, ngài tìm lần về điểm sáng. Chẳng bao lâu, ánh lửa từ cây đèn mù u hiện rõ trong tầm mắt, soi tỏ một chái am tranh, hoàng đế thở phào xuống ngựa.

Chợt cánh cửa trúc mở toang, bóng người, cây đèn và tiếng nói như hiện ra cùng một lúc.

- Kính chào bệ hạ! Bần tăng chờ đợi bệ hạ nơi này đã lâu.

Hoàng đế Mễ Sa kinh ngạc đến đớ cả người. Mãi một lúc sau, nhà vua mới thốt được nên lời:

- Làm sao... mà đại sư biết trẫm... trẫm đến mà đón?

Nhà vua thấy rõ chủ nhân là một vị sa-môn rất già.

Vị sơn tăng mỉm cười nhẹ, nụ cười dịu dàng mát mẻ tỏa sáng như mảnh trăng buổi sơ thu, rồi khoát tay, bước trái qua một bên:

- Xin cung thỉnh bệ hạ vào thảo am ngơi nghỉ đã! Bệ hạ rong ruổi nhiều, long thể chắc đang thấm mệt.

Nhà vua mặc dầu còn bỡ ngỡ cũng vội dắt ngựa tiến vào.

- Cỏ lúa đều đã được dành sẵn, bệ hạ hãy giao ngựa cho bần tăng.

Hoàng đế Mễ Sa chậm rãi bước vào tịnh thất. Ngài đưa mắt nhìn quanh. Một tấm ngọa cụ bện bằng cỏ đặt nằm sắt vách tường phía đông. Hai chiếc bồ đoàn trải giữa phòng cùng bộ đồ trà bé nhỏ bày trên chiếc kỷ. Nơi vách nứa chính giữa, treo buông thả một bức tranh thủy mặc, nét bút khoát hoạt, mờ ảo đầy vẻ phóng dật, tiêu sái. Không khí thiền am như toát ra cái gì đó, nửa xa lạ, nửa thân thiết.

Nhà vua nhè nhẹ cởi hài, ngồi ghé lên bồ đoàn, lại đưa mắt nhìn bức tranh lần nữa. Sao lạ, có cái gì kỳ quái ở bức tranh này? Ta đã từng thấy nó ở đâu? Nó quen thuộc lắm! Nhà vua săm soi nhìn kỹ. Nét bút này, giản phác, mạnh mà mau lẹ - chuyên để vẽ lan trúc - mà sao tác giả lại phối hợp thêm những nét “bát mặc” của vương gia đời Đường? Lối “bát mặc” thì dễ loạn mà ở đây không loạn, chứng tỏ nghệ sĩ đã biến được cái “vô pháp” thành “hữu pháp”. Vẽ sơn thủy như tác phẩm này dẫu chưa đạt được “vẽ núi đứng như núi bay, vẽ suối chảy như suối dừng lại” (sơn phi tuyền lập), nhưng cũng tạm coi là những nét tĩnh, nét động đã toát ra đúng độ, hài hòa, khí vận trôi chảy tự nhiên, nhất quán. Đây chính là nét bút mà nhà vua rất yêu thích, nếu không muốn nói là một tâm đắc độc đáo của mình. Giấy thì đã cũ vàng, nhưng nhà vua vẫn nhìn không lầm lộn là loại “kim tiền” làm ở Cao Ly và Vân Nam - giấy màu xám, phẩm chất thô, có nhiều vôi - chỉ dùng trong hạng dân dã.

Nhà vua bần thần nghĩ ngợi. Một rung động thoảng qua làm nhà vua tái mặt. “Nét bút này chẳng lẽ là của ta?”

- Bệ hạ thấy bức tranh đó thế nào?

Nhà vua chỉ loáng thoáng nghe mơ hồ câu hỏi. Tâm trí nhà vua vẫn đắm chìm trong dòng suy tưởng. Ta có bao giờ dùng loại giấy “kim tiền” này? Nếu không tìm ra giấy đời Tống, hiệu Đông Tân đường làm bằng bẹ tre, thì ta dùng giấy của đất Sở, Hồ Bắc. Mà bức tranh này, nếu đúng là ta vẽ, thì ta đâu đã vẽ hoàn tất?

Tiếng vị sư già như gió thoảng bên tai:

- Bần tăng nhớ hồi xưa, cách đây gần bốn mươi năm về trước, người vẽ nên bức tranh này đã nói như sau: Cái đặc biệt ở tác phẩm này là “vô pháp” mà thành ra “hữu pháp”. Mực vẩy theo lối “bát mặc”, tưởng là loạn mà không loạn. Đây là một trường phái riêng, vừa cổ kính như thời gian đọng trên ngôi thành xưa rêu mục, vừa mới mẻ như giọt sương long lanh trên đầu lá buổi sơ xuân... Hà... hà... hà... Người ấy cười vui khoái thích rồi tiếp - Tuy thế... phải để ý, đằng sau những giọt sương kia, loáng thoáng ẩn hiện vành trăng sơ huyền thăm thẳm và xa xôi...

Hoàng đế Mễ Sa sực tỉnh.

- Mảnh trăng? Đại sư nói mảnh trăng nào?

Ngọn đèn mù u chợt tỏa sáng rộng dưới tay nhà vua, ngài cố nhìn cho rõ bức tranh hơn tí nữa. Rõ ràng ở đây không có mảnh trăng nào. Vậy đâu là mảnh trăng sơ huyền mà vị sư già nói đến?

Hoàng đế Mễ Sa như chợt sáng ý ra, gật đầu:

- Đại sư nói phải! Ở tác phẩm này còn thiếu một mảnh trăng. Thêm một mảnh trăng sơ huyền ẩn ẩn hiện hiện sau màn sương, bức tranh sẽ tỏa sáng, có tư tưởng và tăng xúc cảm hơn.

Vị sư già dường như không nghe lời của nhà vua, vẫn tiếp tục với chuỗi hồi ức quá khứ:

- Người vẽ là một nhà sư có tài cao chí lớn. Tâm thì như chứa cả ngũ nhạc, mà trí thì như kình ngư biển lớn vùng vẫy. Ôi! Nét bút của y mới tài hoa phong vận làm sao? Người xưa nói rằng, đọc văn là biết người. Ở đây, ta có thể xem tranh và tinh thần của nó mà đọc ra đường chỉ vận nghiệp duyên mai hậu. Bức tranh này: còn nghiệp chướng si mê, tù trong lục đạo, trăm dây phiền não, nghiệp báo không rời. Bần đạo đã nói như thế sau khi y phác thảo nên bức họa này. Và đây là lời nói của y như còn mồn một bên tai: Hiền huynh! Tiểu đệ sinh ra trong một gia đình nghèo khó, lại đi tu từ nhỏ, thành thử chuyện đời chưa từng biết qua. Như hiền huynh từng giáo dụ thì chúng sanh, ai ai cũng phải trải qua những kinh nghiệm khoái lạc và đau khổ trong ba cõi sáu đường rồi mới có thể giác ngộ. Vậy thì đệ nguyện kiếp sau sinh làm hoàng đế để xem thử mùi vị cao sang quyền thế nó như thế nào. Nếu lúc ấy mà đệ đắm say vào vinh hoa dục lạc, thì hiền huynh tìm cách nhắc cho đệ tỉnh thức nhé! Hiền huynh ơi! Bức tranh này đệ vẽ đang còn dang dở. Giả như khi đó đệ vì: tình ái si mê, tù trong lục đạo, trăm dây phiền não, nghiệp báo không rời... thì hiền huynh nhớ đưa ra, không chừng đệ nhớ lại mà tỉnh ngộ cũng nên.

Hoàng đế Mễ Sa bàng hoàng. Ngọn đèn trên tay rơi đổ xuống nền đất. Mảnh trăng sơ huyền từ trong bức tranh hiện ra lấp lánh sau màn sương. Nhà vua đứng bất động.

Vị sư già thoáng nhẹ nụ cười trong tối, tiếng nói bây giờ ấm và mạnh như một hồi chuông thu không:

- Tâu bệ hạ! Vầng trăng đó đã chờ bệ hạ gần suốt bốn mươi năm nay. Bần tăng nhớ lời hẹn ước xưa về đây lập thảo am chờ nhân duyên để tái ngộ cố nhân! Con hươu sao hồi trưa là một chút phép mọn của bần tăng, để dẫn dắt bệ hạ về đây xem lại tác phẩm của mình đang còn dang dở!

Vị sư già dứt tiếng mà hoàng đế Mễ Sa như còn miên man trong cõi mộng xa thẳm nào.

Sau khi thắp đèn, chuyên một tách trà nóng ấm cho nhà vua, vị sư già lại thở dài:

- Ôi! Thoáng chốc mà chúng ta xa nhau gần nửa thế kỷ rồi! Vật đổi sao dời, sinh sinh hóa hóa, chuyện xưa nào khác giấc mộng đầu hôm. Chúng ta vốn là đôi bạn đồng đạo dưới chân ngọn Thiên Lĩnh, nay thì kẻ là bệ ngọc mình rồng, người thì đang còn áo đà dép cỏ. Giờ đây, ước nguyện làm hoàng đế đã thỏa chưa, hả cố nhân tài cao phong vận? Mảnh trăng sơ huyền có bao giờ lặn khuất? Bệ hạ thấy thế nào? Ôi! Sá gì chiếc ngai vàng tanh hôi danh lợi lẫn quyền uy sớm còn tối mất? Cát bụi trần ai hãy trả về cho cát bụi trần ai! Khi cơ duyên chín muồi thì trái cây kia rụng xuống. Hãy tỉnh ngộ đi thôi bệ hạ!

Đột nhiên, hoàng đế Mễ Sa rướn người dậy, thò hai tay chụp vội bức tranh, chạy vọt ra rừng đêm mất dạng.

Vị sa-môn già nhìn đăm ra khung cửa một lúc lâu rồi quay vào, thoáng đọng hai hạt sương không rơi trên khóe mắt.

Ngọn đèn mù u lụn bấc leo lét tàn. Vị sư già lựa một thế ngồi thoải mái trên nệm cỏ, lưng dựng thẳng, môi thoảng nụ cười xa rộng, rồi hơi thở cũng dường như chìm tan vào cõi mênh mông, hư tĩnh...

Mảnh trăng sơ huyền cong cong nằm nghiêng bên cửa sổ từ từ khuất vào một đám mây.

Yên Hà các, Đạm Lư hiên 1980
(cùng viết với Pháp đệ Pháp Tông)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/09/2013(Xem: 7951)
Khi bước xuống thuyền vượt biên ai cũng mang đầy hy vọng, mơ ước... Có kẻ mơ ước một tương lai xán lạn ở chân trời mới, có người chỉ mong những giấc mộng bình thường: Ngày hai bữa đủ no, tự do yên ổn...
11/09/2013(Xem: 4404)
Hân tra chìa khóa, mở cửa bước vào phòng làm việc. Căn phòng khá rộng. Diện tích gấp hai sân bóng rổ hầu hết chứa kệ vải. Ở một góc sát cửa sổ nhìn ra ngọn đồi cỏ là chỗ làm việc của Hân với Susan, chiếm 1/6 căn phòng, có một bàn dài, kế đó là những dãy kệ chứa nú
11/09/2013(Xem: 4884)
Hằng năm vào tháng mười, sinh nhật tôi, tôi có thông lệ, trước tiên là tự nhắc mình đóng tiền niêm liễm đến Văn Bút Âu Châu (tôi là hội viên mà), kế đó là cố nặn óc tìm một truyện ngắn về đề tài Sinh Nhật coi như món ăn tinh thần "đãi" quí vị độc giả.
10/09/2013(Xem: 6317)
Một lần nữa, chẳng quản đường xá xa xôi, thời gian, công sức, tôi tìm về tu viện Viên Đức Đức quốc không những gặp lại nhị vị Đại Đức Thích Hạnh Đức, Đại Đức Thích Hạnh Tuệ, tôi đã may mắn tiếp thụ tài thuyết giảng của hai Thầy; một người giảng thật nhẹ nhàng nhưng sâu, một người giảng lôi cuốn hấp dẫn trong khoá tu học do anh em Gia Đình Phật Tử Thụy Sĩ tổ chức vào dịp lễ Phục Sinh hằng năm vừa qua, mà còn hân hoan chào đón thêm 6 vị trong phái đoàn “Hoằng Pháp Âu Châu” do Hòa Thượng Phương Trượng Thích Như Điển tổ chức, một lực lượng hùng hậu chưa từng có từ trước đến nay. Nhìn trong danh sách giảng huấn của phái đoàn, tôi gọi đùa, toàn “Cao thủ võ lâm!” mặc dù không ai là võ sĩ cả mà là tu sĩ!
10/09/2013(Xem: 7787)
“Hậu sinh khả úy“ (kẻ sanh sau thật đáng nể sợ) là câu nói của ngài Khổng Tử, một triết gia Trung Hoa thốt ra khi ngài cùng học trò đi dạo thấy một em nhỏ vọc gạch cát xây thành giữa lối đi, ngài bảo: “Tránh chỗ cho xe ta qua“. Đứa nhỏ đứng dậy, đáp: “Xưa nay, xe tránh thành, chứ thành nào lại tránh xe“. Thấy đứa nhỏ đối đáp thông minh, Khổng Tử xuống xe cùng bé trò chuyện, đưa ra nhiều câu hỏi rất khó khăn, đứa bé đều trả lời thông suốt
09/09/2013(Xem: 5346)
Đối với những ai đã từng ghé Ấn Độ, nghe ngóng, tìm hiểu, quan sát, hẳn không xa lạ gì với thế giới của lực lượng Tăng Ni sinh viên Việt Nam đang du học tại đó. Nhưng với riêng tôi, cho mãi năm 2011 trong chuyến hành hương Tích Lan, tôi mới thực sự biết được bằng mắt thấy tai nghe thế giới lạ đó qua sự giới thiệu của Hòa Thượng Phương Trượng chùa Viên Giác về bốn sinh viên tu sĩ, học tăng từ Ấn Độ.
09/09/2013(Xem: 5409)
Nói đến, viết đến các khóa học Âu Châu, bao năm qua cây viết của tôi đã gần mòn, đã có nhiều bài viết về khóa học, viết đến độ không còn gì để viết. Nào ăn, nào ngủ, nào học, nào chơi... đủ cả. Khỏe cả bên trong, tốt lẫn cả bên ngoài. Thế thì lần này sẽ viết về gì đây?! Xin thưa, viết về “Thiên Đường Hạ Giới“ ạ.
06/09/2013(Xem: 4487)
Từ chùa Từ Đàm, tôi trở lại khóa học, nơi tổ chức khóa tu Âu Châu của mười ngày qua. Sân trường giờ vắng hoe. Thảm cỏ xanh dẫn ra con đường lớn, không còn một bóng người. Vài băng ghế nằm rải rác trên sân cỏ cũng đìu hiu như nhớ, như chờ ai. Bên trong trường học lưa thưa sót lại một số người đang dọn dẹp và một số đang đợi chuyến bay cho ngày hôm sau khi khóa học bế giảng. Hằng ngàn người, mới đó mà...biến mất. Biến như một cơn gió thoảng qua.
06/09/2013(Xem: 9239)
Lý số, đông y là nghề của bố chồng tôi. Không rõ nhờ cụ thực tài hay tại hành nghề miễn phí, không nhận thù lao của khách nên khách của cụ khá đông. Một ngày, năm đó tôi vừa 23 tuổi, có một vị khách đặc biệt đến nhà giữa lúc bố tôi đi vắng. Vị khách tướng tá khác phàm, râu tóc bạc phơ, cốt cách như một tiên ông. Cụ mặc chiếc áo dài the, đầu đội khăn đóng như bố chồng tôi vậy, tay cụ cầm gậy trúc và tự xưng là bạn của bố tôi mặc dù xưa nay tôi chưa hề gặp cụ bao giờ. Tôi mời cụ vào nhà.
29/08/2013(Xem: 10455)
Năm 1983: chúng tôi cạn kiệt khi mua xong đất làm tự viện mà còn thêm nợ nữa. Mảnh đất thật trơ trọi, không nhà cửa, một túp liều cũng không, Suốt mấy tuần lễ đầu chúng tôi phải ngủ trên cánh cửa cũ mua rẻ trong bãi phế liệu. Chúng tôi kê bốn góc gạch làm giường (dĩ nhiên làm gì có nệm – chúng tôi tu ở rừng mà!).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]