Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

SÁU: Cội Thông Già Trên Sườn Núi Tuyết

14/06/201212:06(Xem: 20393)
SÁU: Cội Thông Già Trên Sườn Núi Tuyết

TUỆ SỸ ĐẠO SƯ

Thơ và Phương Trời Mộng - Tập 2


Tác giả: Nguyên Siêu
Ban Tu Thư Phật Học Hải Đức Nha Trang
In lần thứ nhất
California - Hoa Kỳ 2006

flowerba

Sáu

Cội Thông Già Trên Sườn Núi Tuyết

Quamấy nghìn năm, cội thông trên sườn núi tuyết vẫn hiên ngang, sừng sững, im lìm,thi gan cùng tuế nguyệt, mặc cho nắng sớm mưa chiều.

Thôngvươn mình cao vút với tấm thân sù sì, nứt nẻ của những mảnh vỏ hình dáng vuông,tròn bất nhất, biểu tượng cho sự tăng trưởng không giới hạn. Những nhánh thông vươn xa tạo nên bóng mátcho cỏ cây trên mặt đất. Lá thông xanh mướt,uốn mình vi vu theo gió ngàn như những nhạc khúc bất tận. Bão táp mưa sa cũng không làm mất đi nét kiêuhùng của cội thông.

Sứcsống của cội thông là tiềm năng ẩn kín trong lòng đất, những đường rễ dài ănsâu dưới mặt đất đã thu hút dưỡng chất để nuôi thông cho cành lá xum xuê. Nhờ sức sống sung mãn tốt tươi nên tàng thôngđã là nơi nương tựa cho bao nhiêu loài sinh vật, cho chim chóc có nơi trú ngụ bốnmùa.

Khácvới mọi năm, mùa đông năm nay tuyết rơi ngập tràn làm những cây thông con phảigục đầu hứng chịu trong cơn giá buốt. Bao nhiêu cây rừng yếu sức, co ro lạnh giá, cành lá chơ vơ, khẳng khiu gầy guộc trắng xóa trong màn tuyết. Thế nhưng, trong không khí buốt giá củamùa đông giữa núi rừng tuyết phủ, cội thông ngàn năm kia như vẫn toát ra một sứcsống ấm áp để che chở cho vạn loài.

Cộithông như nhận biết bổn phận của mình giữa núi rừng sương tuyết, nên thông cứmãi vươn lên bất tận. Nắng lửa mùa hègay gắt ụp xuống đầu thông, mưa đêm tầm tã như thác đổ, thông cũng trải mình đónnhận, không than van, trách cứ. Phải chăngđó là đức tính nhẫn nhục ngàn đời của thông, thẳng thắn hiên ngang giữa bầu trời,để góp lời reo vui cùng gió ngàn, mây trắng. Phải chăng vì đặc tính uy hùng bất khuất cố hữu của cội thông mà người xưađã thốt lời ước mong:

“Kiếpsau xin chớ làm người,

Làmcây thông đứng giữa trời mà reo.”

(NguyễnCông Trứ)

Chừngấy đủ biết sức uy dũng của thông như thế nào. Với bản chất hướng thượng, cho dầu cheo leo nơi vách đá, trên sườn núicao hay nơi thung lũng sâu thẳm, thông vẫn vươn mình đứng thẳng, không congqueo như các loài thảo mộc khác.

Hàngngàn năm trôi qua, cội thông trên sườn núi tuyết, dù vươn cao tỏa rộng, ngạonghễ với núi đồi, nhưng vẫn hòa mình với thiên nhiên, cỏ cây, vách đá.

Thôngnghe tiếng suối reo như mang bao tự tình của núi rừng xuôi về biển cả, hòa nhậpvào đại dương xanh thẳm. Thông ngắm mâytrời bềnh bồng đây đó như gởi gắm bao tâm sự ngàn đời ủ kín trong lớp vỏ nứt nẻ. Bất chợt một hôm nào đó, núi rừng thầm nghetâm sự của thông được gió ngàn mang lên tận đỉnh núi. Nơi đó, một bản trường ca về bầu trời và mặt đất,về bóng nắng và không khí, về sức sống của muôn loài từ thuở khai thiên lập địađược tấu lên khúc nhạc hùng thiêng, tán dương vẻ đẹp mầu nhiệm, thiên thu, diễmtuyệt của hóa công có đôi tay tạo dựng toàn bích. Lời ca đó được mang đi qua bao núi đồi, thunglũng, đồng bằng biển khơi gieo rắc hạt mầm, chủng loại của thông bất diệt.

Ánhnắng của ngày dần tắt, chỉ còn vương lại đôi chút tia sáng yếu ớt trên ngọnthông xanh, báo hiệu ngày sắp tàn và đêm buông xuống. Núi rừng u tịch. Sương đêm nặng hạt trên chót lá. Cội thông im lìm như lắng nghe nỗi lòng củaloài thảo mộc, của ghềnh đá, của loài chim đêm, côn trùng sâu bọ nơi hoang dã đãcùng chia sẻ với nhau một kiếp phù sinh. Rải rác đó đây, nhiều sinh thể đang chuyển mình dưới lớp lá thôngkhô. Từ dưới lớp lá thông khô ấy, cácsinh thể xây dựng một xã hội sống vi tế của ốc sên, dế nhủi, của các loài sâu bọ muỗi mòng, kiến đất. Chúng nương nhờ sự che chở của bóngthông mà quanh năm được yên ổn. Đời sốngđó tạo thành làng mạc, phố thị, sân ga, ấy là nỗi bình yên của mặt đất. Chúng không mơ một ngày nào đó sẽ biến thànhtrăng sao, các vì tinh tú trên bầu trời xanh thẳm, và chúng cũng không mơ sẽhóa thân thành cội thông ngàn năm để che mưa, chở nắng cho núi rừng được tươimát. Chúng bằng lòng nếp sống yên bình cạnhgốc thông già mà an hưởng tuổi đời dưới tàng lá mục, để rồi một hôm nào đó hóathân làm kiếp phù sinh:

MộngNgày

Tacỡi kiến đi tìm tiên động

Cõitrường sinh đàn bướm dật dờ

Cócvà nhái lang thang tìm sống

Tronghang sâu con rắn nằm mơ.

Đầu cửa động đàn ong luân vũ

Chị hoa rừng son phấn lẳng lơ

Thẹn hương sắc lau già vươn dậy

Làm tiên ông tóc trắng phất phơ.

Kiếnbò quanh nhọc nhằn kiếm sống

Tatrên lưng món nợ ân tình

Cũngđịnh mệnh lạc loài Tổ quốc

Cũngtình chung tơ nắng mong manh

Ta hỏi kiến nơi nào cõi tịnh

Ngoài hư không có dấu chim bay

Từ tiếng gọi màu đen đất khổ

Thắp tâm tư thay ánh mặt trời?

Tagọi kiến ngập ngừng mây bạc

Đườngta đi, non nước bồi hồi

Bócquá khứ, thiên thần kinh ngạc

Cắnvô biên trái mộng vỡ đôi

Non nước ấy trầm ngâm từ độ

Lửa rừng khuya yêu xác lá khô

Ta đi tìm trái tim đã vỡ

Đói thời gian ta gặm hư vô.

(Tuệ Sỹ - Sàigon 1984)

Đólà lẽ sống của vạn loài cóc nhái, kiến rừng, ong bướm ... trên triền núi tuyết với sức sống không héomòn, sung mãn tự thuở man nhiên.

Sángnay bầu trời quang đãng, nắng lên cao cho tuyết trên đỉnh tan dần, pha loãngvào từng gốc cây, khe đá thấm sâu vào lòng đất. Cội thông ngàn năm của núi rừng vẫn luôn hiện hữu với lá hoa, mây ngàn,cỏ nội, khói đá, sương hôm... và nguyện làm cội thông hùng vĩ, cao chót vóttrên sườn đồi trước khung cảnh bao la của trời đất.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/09/2016(Xem: 5691)
Vào cuối đời Tây Tấn, vua Huệ Đế ngu tối, việc triều chính đều do hoàng hậu Giả thị chủ trương. Giả hậu là người nham hiểm, lại biết quyền biến đởm lược, mưu giết các thân vương, phế bỏ Thái tử. Triệu Vương Luân bèn phẫn uất, cử binh giết Giả hậu, truất phế vua Huệ Đế mà tự xưng lên làm vua. Các thân vương khác thấy vậy cũng dấy binh tranh giành lẫn nhau, cốt nhục tương tàn, làm cho nhà Tấn suy yếu.
22/08/2016(Xem: 4625)
Sáng hôm nay trong thinh lặng của một sáng chủ nhật mùa đông, tôi muốn dành tâm trí thảnh thơi để viết vài hàng trả nợ cho cô bạn tí hon ngày xưa. Nợ vì tôi cứ hẹn sẽ viết cho nàng. Gọi là bạn nhưng chưa bao giờ nói chuyện, gọi là bạn vì học cùng trường. Tí hon vì nhỏ hơn tôi ba tuổi. Từ nhỏ, tôi có một tật rất xấu, tôi xem ai nhỏ tuổi hơn tôi là con nít. Vì sao chỉ hơn vài tuổi mà khi nào tôi cũng có cảm tưởng như mình đứng rất cao để nhìn xuống những người tí hon này!
11/08/2016(Xem: 4233)
Nó không biết chính xác năm nay mình bao nhiêu tuổi, chỉ nghe sư thầy nói nó ở chùa đã 12 năm với cái tên Quảng Chân Tâm. Tất cả những đứa trẻ ở chùa ngoài tên đời do cha mẹ đặt, sư thầy đều cho pháp danh với chữ Quảng đứng đầu.
03/08/2016(Xem: 37108)
Nhà thơ triết gia Phạm Công Thiện [1941 - 2011] qua đời năm 2011 tại Houston, nhưng chuyện kể, các bài viết về anh đã nhiều lầm lạc : Người viết : anh bỏ áo tu hành lấy cô vợ người Pháp, theo Thiên Chúa Giáo, kẻ khác viết : anh không hề có một mảnh bằng kể cả bằng tú tài mà dạy Triết Học Viện Đại học Sorbonne, mười lăm tuổi anh đọc và viết hàng chục ngôn ngữ, mười lăm tuổi anh dạy trung học, hai mươi tuổi anh là khoa trưởng khoa Khoa Học Nhân Văn, Đại Học Vạn Hạnh Sài Gòn, anh là triết gia không cần học một ai ? Dạy Triết học tại một Đại Học Pháp mà không cần một văn bằng nào ?
25/07/2016(Xem: 5304)
Người đàn bà đến bên cửa sổ ghé mắt nhìn ra ngoài trời. Qua lớp mưa mù dầy đặc trắng xoá ngoài kia bà chẳng nhìn thấy được gì ngoài những tia chớp xé toạt không gian kèm theo hàng loạt tiếng sấm như long lỡ đất trời. Thời tiết chiều nay quá xấu, xấu hơn người ta đã dự đoán và xấu hơn sự suy nghĩ của Quang, đứa con trai lớn của bà. Đã mấy tháng rồi nó mới có dịp bay về thăm bà vậy mà hôm nay trời lại mưa bão quá chừng! Trước khi lên máy bay nó còn gọi báo cho bà biết: - Bên đây thời tiết đẹp lắm má! Mong rằng khi con bay sang đến Cali thì trời quang mây tạnh, con sẽ chở má đi ăn và ở chơi với má đến tối mới về lại khách sạn.
06/07/2016(Xem: 8689)
Hôm nay là ngày 10 tháng 6 năm 2015, tại thư phòng chùa Viên Giác Hannover, Đức Quốc, tôi bắt đầu viết tác phẩm thứ 65 của mình với tựa đề là “Nước Úc trong tâm tôi” để sang năm 2016 sẽ xuất bản và ấn tống. Tác phẩm nầy được viết trong mùa An Cư Kiết Hạ lần thứ 31 của năm Ất Mùi, nghĩa là từ năm 1984 đến nay (2015) cứ mỗi năm ba tháng như vậy, Thầy trò chúng tôi có trọn vẹn 3 tháng an cư tại chùa Viên Giác thật là an lạc. Chương trình mỗi ngày được bắt đầu từ 5 giờ 45 sáng. Đại Chúng vân tập nơi Tổ Đường để xá Tổ, sau đó lên Chánh Điện, hô canh và tọa thiền 15 phút. Sau khi xả thiền, Đại Chúng bắt đầu trì tụng Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm, phần giữa của thời khóa có kinh hành niệm Phật ba vòng, tiếp đó lạy danh hiệu của chư Phật, Bồ Tát và Thánh Chúng độ 35 lạy. Sau thời công phu khuya ai về phòng nấy để nghỉ ngơi hay hành trì tiếp, hoặc tập thể dục. Đúng 8 giờ sáng là giờ điểm tâm của Đại Chúng, ai nấy đều tỉnh thức trong lúc dùng sáng, không nói chuyện, mà câu chuyện hằng ngày chỉ được
13/06/2016(Xem: 4396)
Hoa Lan nhất định không đầu hàng ngẩng mặt than thở: “Đời là bể khổ, tình là giây oan“ như cụ Tố Như đâu. Hoa Lan phải tâm tâm niệm niệm cột vào tâm câu Nhất thiết duy tâm tạo, khổ hay vui đều do cái đầu và bàn tay năm ngón của ta điều binh khiển tướng. Hoa Lan sẽ kể về nỗi khổ, niềm đau của thế gian trong trường thiên Tỵ Nạn Tình Duyên, một vấn nạn trong cuộc sống lứa đôi, trong vòng ái ân, sinh tử. Nỗi khổ chúng sanh chỉ cần khoanh vùng trong hai chữ tỵ nạn cũng đủ làm ta khiếp vía. Nào tỵ nạn cộng sản, con rơi của tỵ nạn chính trị, cháu rớt của tỵ nạn kinh tế, những đề tài ấy nhắc đến đã đủ ù tai hoa mắt và cũng chẳng phải là sở trường của mình, Hoa Lan sẽ kể về đề tài tỵ nạn tình duyên, nơi đã đi, đã đến và đã về.
01/06/2016(Xem: 13260)
Bài này được viết như một ghi chú cho Thiền Tông, để như một cách tiếp cận đơn giản… và hy vọng, cũng là một ghi chú cho rất nhiều pháp khác của nhà Phật, kể cả Tịnh Độ. Bởi vì, Thiền Tông là pháp môn cốt tủy nhất, trực tiếp nhất, không qua bất kỳ phương tiện nào khác, và cũng có thể dùng làm chiếc cửa lớn cho tất cả các pháp khác.
31/05/2016(Xem: 20974)
Chuyện xảy ra ở Việt Nam, nhưng lại bắt đầu từ bên Mỹ. Số là, vào khoảng thời gian năm 1956, có một kỹ sư Hoa Kỳ tên là Frank M.Balk. Chàng kỹ sư này suốt đời chẳng biết gì về cái xứ bé nhỏ xa xôi tận vùng Đông Nam Á tên gọi là Việt Nam cả.
27/05/2016(Xem: 6580)
Bao nhiêu năm ao ước cho đến hôm nay tôi mới có duyên lành được hành hương về Tây Trúc - Tây Trúc hay Thiên Trúc là tên gọi trước đây của xứ Ấn Độ. Trong phái đoàn tôi đi có nhóm Sợi Nắng và các Phật tử đến từ Canada cũng như Hoa Kỳ. Về chư Tăng thì có thầy Tánh Tuệ - nhà thơ Như Nhiên. Thầy là người từng sống và học tập ở Ấn Độ suốt bảy năm nên thầy nắm rất rõ về lịch sử, địa lý, phong tục tập quán... của người Ấn Độ. Cũng chính vì thâm niên như vậy nên nước da thầy rám nắng và người ta thường gọi thầy với cái tên rất gần gũi là "thầy cà-ri". Ngoài ra, phái đoàn còn có thêm sư cô An Phụng và sư cô Huệ Lạc
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]