Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

BA: Tuổi Trẻ và Tâm Tình của Một Người Thầy

14/06/201212:06(Xem: 20486)
BA: Tuổi Trẻ và Tâm Tình của Một Người Thầy

TUỆ SỸ ĐẠO SƯ

Thơ và Phương Trời Mộng - Tập 2


Tác giả: Nguyên Siêu
Ban Tu Thư Phật Học Hải Đức Nha Trang
In lần thứ nhất
California - Hoa Kỳ 2006

flowerba

Ba

Tuổi Trẻ và Tâm Tình của Một Người Thầy

Ngày tháng qua đi như nước lũ xuôi nguồn,hấp tấp vội vàng, không hối tiếc. Nhưngtrong dòng nước lũ cuồng nộ ấy vẫn còn tồn đọng đôi mảng rong rêu, như tâm tìnhđơn lẻ.

Hơn 30 năm, từ đầu thập niên 70, Thầy đãđến với anh em học Tăng trên đồi Trại Thủy, Phật Học Viện Hải Đức NhaTrang. Âu cũng là nhơn duyên đâu đó. Vì rằng trong thời gian này Thầy là Giáo sư ĐạiHọc Vạn Hạnh mà cũng là Tổng Thư ký Tòa soạn Tư Tưởng Vạn Hạnh thì làm sao mà bỏđi được. Nhưng không, cái gì đến thì đã đến,đến trong thâm tình của một người Thầy cao cả, một bậc ân sư trao truyền cho nếpsống đạo, nếp sống chân thật và tình người chân thật.

Tăng sinh lớp học của Viện thời bấy giờmới vừa trên dưới đôi mươi, riêng người viết thời ấy mới vừa 19 tuổi đầu. Khung cảnh mái học viện thân thương, trên cóban Giám đốc, trong đó có Thầy, luôn chăm lo cho đàn con son trẻ. Dĩ nhiên, trên lý tưởng “tiếp dẫn hậu lai báoPhật ân đức” là phương châm, hướng đi hàng đầu của quý Ôn hằng ấp ủ. Người mà có tinh thần cấp tiến cho anh em họctăng được theo chương trình phổ thông là Ôn Già Lam, Giám viện các Phật Học ViệnBáo Quốc – Huế; Trung Phần Hải Đức Nha Trang; Tu viện Quảng Hương Già Lam – SàiGòn. Ôn đã cho phép anh em học tăng đượchọc hai chương trình song song, chuyên khoa Phật Học và phổ thông ngoài đời, vìÔn nghĩ rằng kiến thức phổ thông sẽ giúp quý Thầy sau này tiếp xúc với xã hội đượcdễ dàng hoằng pháp lợi sanh. Chính vìtinh thần cảm thông cho giới trẻ mà Ôn đã cho anh em học tăng tự do chọn ngànhhọc của mình. Thấy vậy Ôn Đổng Minh, nayđã viên tịch, khuyên anh em học tăng nên chọn những ngành khoa học hơn là chọnban văn chương, triết học. Ôn nói:

“Đi ban văn chương rồi về làm văn thơ gởitâm tư theo mây gió có ích lợi gì đâu, hãy chọn các ban khoa học như toán, hóahọc... về nghiên cứu, biến chế xì dầu Lá Bồ Đề, Hương Giải Thoát còn có ích hơn.”

Ôn lúc nào cũng thiết thực, đem khả năngphụng sự cho Đạo, cho Đời. Ôn muốn tận dụngkiến thức, khả năng của giới trẻ để phụng sự cho tất cả, mà không muốn uổngcông phí sức. Ôn thường nói:

“Của đàn na tín thí khó tiêu.”

Vì thế, lúc nào Ôn cũng đốc thúc, làm độngcơ cổ súy anh em học Tăng có điều kiện tinh tiến. Chính nhờ công đức đó mà các anh em có ngườitrở thành Bác Sĩ, Hiệu Trưởng, Giáo Sư các trường Bồ Đề, hay giảng dạy lạitrong các Phật Học Viện... Đó là nhữngchân tình của quý Ôn đã nuôi dưỡng học tăng qua các Phật Học Viện của một thờihưng thịnh. Nay quý Ôn đã không còn nữa. Người viết nhớ lại, mỗi khi có Phật sự của Việncần bàn luận thì trên cốc của Ôn Giám viện có đầy đủ quý Ngài: Ôn Già Lam, GiámViện Phật Học Viện; Ôn Từ Quang, thường ở trên cốc trong 3 tháng an cư; Ôn Từ Đàm– Viện trưởng Viện Cao Đẳng; Ôn Đổng Minh – Phó Viện Trưởng Viện Cao Đẳng; ÔnTrừng San – Giám sự Phật Học Viện; và Thầy Tuệ Sỹ... nhưng giờ đã không còn nữa, chỉ còn Ôn MinhChâu ở Vạn Hạnh và Thượng tọa Tuệ Sỹ ở Già Lam. Các Ngài đã xả bỏ báo thân viên tịch, vì thế Viện Cao Đẳng nay chỉ cóxác mà không hồn, ngày tháng âm thầm, nép mình dưới rặng Bồ Đề, hàng phượng vĩ. Một nỗi đau chẳng nói nên lời. Đến nay, mỗi lần Thầy nghĩ về Phật Học Viện HảiĐức, trên đồi Trại Thủy khi xưa lại thấy lòng mình chấn động, bàng hoàng đến rơilệ. Bao lớp bụi phế hưng của vô thường đãchôn chặt tất cả mọi hình ảnh, công sức của các thế hệ Cha Ông, Thầy Tổ. Còn đâu nữa bóng dáng oai nghiêm của Ôn GiàLam về thăm viện. Không còn hình ảnh annhiên tự tại trước hành lang viện của Ôn Từ Đàm và cũng không còn thân giáo aicũng ngưỡng vọng nhưng khiếp sợ của Ôn Đổng Minh mỗi lần chống dù qua thămchúng. Tất cả đã lùi về dĩ vãng, chôn chặtở nơi đó những kỷ niệm tình nghĩa Thầy trò, mà trăm kiếp ngàn đời cũng khó phôipha. Sự hiện thân của quý Ôn vào cuộc đờiđể độ sinh, hành đạo, rồi công viên quả mãn, thệ nguyện đã thành thì quý Ngàithuận thế vô thường, sanh diệt chỉ là huyễn duyên không thật. Quý Ôn có đến có đi, nhẹ như mây trời, bềnh bồngđây đó, không hề vướng bận chút trần duyên, nhưng chúng con, hàng Tăng sinh hậuhọc còn nặng tình ân sư, nghĩa Thầy trò khó mà nguôi ngoai khi nghĩ về nhữngngày tháng cùng chung sống dưới mái Học Viện. Từng mùa an cư kiết hạ, có đầy đủ quý Ôn. Lễ Kiết Giới An Cư, Thầy quản chúng bưng cây đènsáp thỉnh Ôn Từ Quang làm lễ khai chung bảng nơi trai đường. Trong khi đó tất cả đại chúng y hậu chỉnh tề đứngnghiêm trang trong chánh điện. Ôn ĐổngMinh hầu Ôn Từ Quang vào chánh điện để niêm hương bạch Phật làm lễ Yết Ma Kiếtgiới trường. Ôn Đổng Minh đại diện chúngTăng tuyên bố và chỉ rõ ranh giới của giới trường từ hướng đông đến hướng tây,từ hướng nam đến hướng bắc. Phía trướcgiáp cửa bàn pha, phía sau giáp vách hậu Tổ... Tất cả hình ảnh ấy còn đậm nét trong tâm tư những anh em học Tăng thủa ấy.

Suốt ba tháng an cư đều đặn, Ôn ĐổngMinh từ chùa Tỉnh Hội qua Viện trên con đường được mệnh danh là Đại Lộ BìnhMinh, nằm ven triền đồi Trại Thủy, không sót một bữa, đủ chín chục bát cơmin... và cứ thế suốt bao mùa mưa nắng, quý Ôn đã tận tụy nuôi lớn đàn con, đểbây giờ nghĩ về thời ấy mà thương quý Ôn vô vàn.

Cũng trong những mùa an cư này, Ôn Từ Đàmdạy Bát Thức Quy Củ Tụng hoặc Thủ Lăng Nghiêm, Ôn Đổng Minh dạy luật hoặc DuyThức Phương Tiện Đàm. Đâu đó rành rọtnghiêm minh như tấm lòng nồng ấm được trao truyền cho nhiều thế hệ.

Người viết nhớ ngày tổ chức Đại Giới ĐànPhước Huệ, năm 1973, Ôn Già Lam là Đàn Chủ, Ôn Từ Quang làm Đàn Đầu Hòa Thượng. Giới Đàn oai nghiêm trang trọng. Đêm hô canh, chấp lệnh, thiền hành. Trên ba trăm giới tử xuất gia, ban kiến đàn,quản giới tử đều thiền hành từ chánh điện Phật Học Viện đi lên phía trước dãy Tăngphòng đến tháp chuông, lên Kim Thân Phật Tổ, xuống tam cấp Kim Thân, ra trướcchánh điện chùa Tỉnh Hội, vòng qua đại lộ Bình Minh rồi về lại Viện. Một đoàn người vừa chung, vừa bảng, vừa đèn đuốc,tù và, hô canh niệm Phật vang rền cả núi rừng Trại Thủy. Thật là một thời huy hoàng, xiển dương chánhpháp. Tấm biển “Tuyển Phật Trường”, sơnson thếp vàng, Đạo Tràng Chọn Người Làm Phật, được tôn trí ở nhà Thiền, nơi đảnhlễ cung thỉnh Hội Đồng Thập Sư. Bên cạnhnhà Thiền là giảng đường để giới tử trùng tuyên giới luật, treo câu:

“Kích Pháp Cổ, Xuy Pháp Loa Phổ Cáo MộcXoa Ứng Thế”

(Đánh trống Pháp, thổi loa Pháp Báo Hiệu Giới Luật Ứng Hiện Nơi Đời)

Trong ngôi vị Đàn Đầu Hòa Thượng, Ôn TừQuang được cung thỉnh ngồi trên kiệu, có giới tử khiêng từ dưới cổng viện lênchánh điện trong buổi sáng hôm đó. Saubuổi lễ, hầu Ôn về cốc, đến giờ cơm trưa, Ôn nói:

“Hồi sáng quý Thầy khiêng tui trên kiệutui sợ quá, đường dốc, lên tam cấp, cái kiệu cứ lắc lư, tui bắt thót ruột.”

Ôn nói rồi cười, làm mọi người ai cũngcười theo. Ôn Già Lam cũng đùa:

“Có răng mô mà Ôn sợ ?”

Ấy là nếp sống đạo vị của quý Ôn, mà ngườiviết một thời có duyên gần gũi, hầu qúy Ngài, để thấy được tánh đức từ bi, trítuệ sáng ngời tỏa rạng nơi quý Ôn, là những bậc thạch trụ Thiền gia, Long tượngKỳ túc. Nay thì rừng thiền vắng bóng quýÔn, cửa Viện âm ba bặt dứt. Dòng từthanh thản uy nghiêm, nhẹ bước tiêu diêu miền Tịnh độ, để lại sau lưng gót hàicòn sắc nét đâu đó nơi bực thềm, nơi sân, nơi cổng Viện... và đâu đó còn hiển lộ bóng dáng tôn nghiêm củaquý Ngài. Hương thơm giới đức còn xông ướpmái chùa, sắc tướng huyễn thân ảnh hiện từng khóm cây, nhánh lá. Đã gần 40 năm xa Viện nhưng cứ ngỡ như ngày nào,nay chỉ có mình Thầy còn đó. Nhưng còntrong sự nghiệt ngã, đã một lần bị kêu án tử hình giảm xuống còn 14 năm tù ở,và còn bao năm bị quản chế giam lỏng. Thờicuộc đẩy đưa khiến Thầy phải lao đao, nhưng ý chí vững vàng, Thầy vẫn hết mựcgiáo dục chúng con và các thế hệ kế tiếp. Thầy đã nhiều lần khẳng định với anh em Tăng sinh:

“- Người xuất gia, khi cất bước ra đilà hướng đến phương trời cao rộng, tâm tính và hình hài không theo thế tục,không buông mình chiều theo mọi giá trị hư dối của thế gian, không cúi đầu khuấtphục trước mọi cường quyền bạo lực. Mộtchút phù danh, một chút lợi thế, một chút an nhàn tự tại, đấy chỉ là những giátrị nhỏ bé, tầm thường và giả ngụy, mà ngay người đời còn vất bỏ không tiếc nuốiđể giữ tròn tiết nghĩa. Chớ khoa trươngbảo vệ chánh pháp mà thực tế chỉ ôm giữ chùa tháp làm chỗ ẩn núp cho ma vương,làm nơi hội tụ của cặn bã xã hội. Chớ hôhào truyền pháp giảng kinh, thực chất làmượn lời Phật để xu nịnh Vua quan, cầu xin một chút ân huệ dư thừa của thế tục,mua danh bán tước. Xưa kia, khi Vua Chúabắt Sư Tăng cúi đầu nhận tước lộc của Triều đình để làm tôi tớ cho Vương hầu,Chư Tổ đã sẵn sàng đặt đầu mình trước gươm bén, giữ vững khí tiết của người xuấtgia, bước theo chân vô úy, vô cầu của các Thánh đệ tử, được gói trọn trongthanh quy: “Sa môn bất kỉnh vương giả.”

Lời nói khí khái của bậc xuất trần vithượng sỹ. Thầy đã không khiếp sợ trướccường quyền: “Không ai có quyền xét xửtôi, thì không ai có quyền ân xá tôi.”dẫu đứng trước vành móng ngựa nhậnán tử hình. Thầy thanh thản, bình tâm giữtròn tiết tháo của người đệ tử Phật, của kẻ sỹ ý thức được vận mạng quốc giadân tộc, và đảm đương sứ mệnh hoằng truyền giáo pháp của Đức Như Lai.

Thầy luôn tâm niệm: đào tạo Tăng tài,giáo dục tuổi trẻ, nguồn tài nguyên vô tận, để hộ đạo giúp đời, đem niềm an vuitịnh lạc cho quê hương, dân tộc. Thầyluôn khởi động làm chấn hưng văn hóa nước nhà và đóng góp những công trìnhnghiên cứu, dịch thuật, sưu khảo giáo pháp cho ngôi nhà Phật Giáo Việt Nam ngàythêm phong phú.

Bằng tâm niệm đó, Thầy luôn đi bên cạnhcủa nhiều thế hệ Tăng sinh. Thế hệ học Tăngcủa 30 năm trước tại Viện Cao Đẳng Hải Đức, Nha Trang. Thế hệ học Tăng của thập niên 80 của Tu việnQuảng Hương Già Lam. Thế hệ học Tăng củaThừa Thiên – Huế hiện có bây giờ. Thầy đãquán chiếu được môi trường xã hội mang tính thời đại, cũng như truyền thống ViệtNam nhiều nghìn năm. Quán chiếu tự thântheo lẽ thăng trầm sinh diệt của cuộc đời. Thầy nói:

“... Thế hệ của Thầy thừa hưởng đượcnhiều từ Thầy Tổ, nhưng chưa hề báo đáp ân đức giáo dưỡng cao dày trong muôn một. Chỉ mới tròn 30 tuổi đã phải khép cổng chùa,xách cuốc lên rừng, xuống biển, cũng mưu sinh lao nhọc như mọi người. Rồi lại vào tù, ra khám cũng linh đinh theo vậnnước thăng trầm. Sở học, sở tri cũng cùnmòn theo tuổi đời, năm tháng. Duy chưacó điều gì thất thố làm điếm nhục tông môn, uổng công Sư trưởng tài bồi. Một chút niềm tin chưa hề thoái thất, chỉmong cùng chia sẻ với thế hệ kế thừa. Mộtthế hệ đang trưởng thành để khơi tỏ ngọn đèn Chánh pháp giữa một đất nước thấmnhuần phong hóa.”

Tất cả tâm tư Thầy được diễn đạt đếnanh em học Tăng bằng máu và nước mắt. Bằngtrái tim nồng nhiệt, lo lắng cho thế hệ tương lai. Thầy đặt niềm tin nơi thế hệ tiếp nối giữtròn tiết tháo của kẻ sỹ mà không bị lung lạc bởi thế tục lợi danh. Thế hệ đó đi trên đoạn đường Chánh pháp, nêucao chí nguyện xuất trần để khỏi cô phụ công ơn Thầy Tổ. Mong cho các thế hệ kế thừa được vuông tròntheo ý nguyện của sơ tâm, giữ vững niềm tin trong sáng để tự tồn trên lý tưởnggiác ngộ. Thầy khuyên:

“Cầu mong các con có đủ dũng mãnh để đibằng đôi chân của mình, nhìn bằng đôi mắt của mình; tự xác định hướng đi chochính mình. Thầy sẽ là người bạn đồnghành với các con trên đoạn đường bóng xế của đời mình.”

(Thư gởi Tăng sinh Thừa Thiên – Huế. Ngày 28-10-2003)

Còn gì để nói về tâm tình của một bậcThầy cao cả! Bậc Ân sư của nhiều thế hệ Tăng sinh!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/11/2017(Xem: 4368)
Hôm nay ngày 1.11 tôi viết bài này chỉ nhằm kể một câu chuyện thực tế lịch sử; vì đâu, nguyên nhân, tôi xin miễn đào sâu vì cũng không có đủ hiểu biết, thời gian và cũng không phải mục đích tôi muốn chia sẻ ở đây! Ba mẹ tôi đều sinh ra và lớn lên tại Huế, học xong tú tài ở trường Khải Định năm 1955 (tên lúc bấy giờ của trường Quốc Học Huế). Giai đoạn đó đất nước vừa chia đôi, TT Ngô Đình Diệm vừa chấp chính. Ông Diệm xuất thân từ gia đình quan lại, bản thân ông cũng từng đỗ đạt ra làm thượng thư như cha của ông là Ngô Đình Khả, anh là Ngô Đình Khôi, nên rất trọng bằng cấp, học vấn như lối suy nghĩ của tầng lớp trí thức nho học thời bấy giờ. Vì vậy ông Diệm rất ưu tiên cho ngành giáo dục, đặc biệt trong giai đoạn sau 1954 khi người Pháp rời khỏi VN, cần xây dựng một nền giáo dục bản xứ thay thế cho nền giáo dục thuộc địa của Pháp.
19/10/2017(Xem: 14101)
Truyện thơ: Hoàng Tử Khéo Nói và Con Thủy Quái, (thi hóa, phỏng dịch theo bản văn xuôi PRINCE GOODSPEAKER AND THE WATER DEMON của Ven. Kurunegoda Piyatissa & Tod Anderson) , Ngày xưa có một ông vua Trị vì đất nước rất ư công bằng Cạnh bên hoàng hậu đoan trang Vua yêu, vua quý, chứa chan hương tình. Thế rồi hoàng hậu hạ sinh Một trai kháu khỉnh đẹp xinh vô cùng Nhà vua sung sướng vui mừng Nghĩ suy chọn lựa tìm đường đặt tên Mong cho con lúc lớn lên Vẻ vang ngôi vị, êm đềm tương lai Vua bèn đặt tên con trai Hoàng tử Khéo Nói, nhiều tài mai sau.
06/09/2017(Xem: 7434)
Hạt hồ đào (walnut) ăn rất ngon nhưng cái vỏ của nó rất cứng. Ở Tây phương người ta có chế ra một cái kẹp sắt, chỉ cần bóp mạnh cái kẹp thì vỏ hồ đào vỡ và ta có thể thưởng thức ngay hương vị thơm ngọt và bùi của hồ đào. Có những kẻ trong chúng ta đã từng bị lúng túng trong khi đọc những bài kệ Trung Quán Luận. Nhưng trong hai mùa Đông năm 2001-2002 và 2002-2003, thầy của chúng tôi là thiền sư Nhất Hạnh đã giảng giải cho chúng tôi nghe và hiểu được những bài kệ ấy một cách dễ dàng và thích thú. Sách này ghi lại những bài giảng của thầy về sáu phẩm căn bản của Trung Quán Luận, các phẩm Nhân Duyên, Khứ Lai, Tứ Đế, Hữu Vô, Nhiên Khả Nhiên và Niết Bàn
31/08/2017(Xem: 5079)
Vào một buổi tối mùa đông cách đây hơn 30 năm, tại thủ đô Washington của nước Mỹ, một quý bà không may đánh rơi chiếc cặp tài liệu trong bệnh viện. Chồng của quý bà là một thương nhân giàu có. Ông đã vội vã quay lại bệnh viện giữa đêm hôm để tìm kiếm, bởi vì trong chiếc cặp không chỉ là rất nhiều tiền mà còn có cả một tập tài liệu mang thông tin mật của thị trường tài chính. Vị thương nhân đang đảo mắt tìm kiếm thì thấy một đứa trẻ rách rưới đứng ở hành lang bệnh viện. Cô bé đứng dựa vào tường, người vẫn còn co rúm trong bộ quần áo mỏng manh. Và trên tay cô bé chính là chiếc cặp mà vợ ông đánh mất.
29/08/2017(Xem: 6797)
Khi tôi 26 tuổi, tôi hạ sinh một bé trai kháu khỉnh. George có mái tóc đen, mắt xanh và cặp lông nheo dài tôi chưa bao giờ thấy ai có được như vậy. Cu cậu bắt đầu nói khi được chín tháng, đi được khi được mười tháng và có thể bay nhảy khi được hai tuổi. Cậu bé là niềm vui của tôi, và tôi yêu thương thằng bé hơn cả tình thương mà tôi có. Đứa Con Trai Hoàn Hảo, Sharon Drew Morgan, Quảng Tịnh dịch
21/08/2017(Xem: 4690)
Tại Sao Tôi Đi Tu ? Thích Từ Lực và Trần Mạnh Toàn, Thường ngày, cảm giác của người bị phong tỏa, rình rập và đe dọa từng giây từng phút khiến anh thấy như quên mất con người riêng của mình. Nỗi buồn, vui, rung động trước ngọn gió cuối năm như đã xa rời anh. Tiếng súng và trọng pháo vắng hẳn trong buổi chiều hưu chiến. Anh không nghĩ có thể tạm quên được sự nguy hiểm, báo động thường xuyên nhưng sự vắng lặng của chiều cuối năm khiến cho những xúc động trong lòng dậy lên như âm binh được điều động. Ngọn gió nơi chân đồi bỗng làm anh thấy gờn gợn đôi tay trần. Ngọn gió y hệt như lúc vi vu bên hàng chè trước nhà vào chiều ba mươi tết, lúc mà anh giúp mẹ đặt nồi bánh chưng lên bếp lửa. “Tết ni được no rồi.” Bấy giờ, anh chẳng để ý để hiểu hết câu nói của mẹ, vừa nói, đôi tay chai sạn vừa đẩy mấy gộc tre vào lòng bếp.
09/08/2017(Xem: 4282)
Tôi về ở trong appartement này đã hơn 20 năm, một khoảng thời gian dài đủ để chứng kiến bao cảnh tang thương biến đổi của cuộc đời. Bóng xế hoàng hôn ảm đạm dàn xuống chung cư này nhiều hơn là ánh sáng rực rỡ của những buổi bình minh... Những năm đầu khi tôi mới đến, vợ chồng ông Damhart ở tầng 1 là một cặp vợ chồng đã được nhiều người yêu mến về tính tình cởi mở, luôn luôn hòa nhã với mọi người. Bà rất siêng năng mẫu mực, làm việc nhà không biết mỏi mệt, lúc nào cũng mang sẵn một cái tablier trước ngực. Tôi có cảm tưởng như công việc nhà của Bà làm không bao giờ hết được. Và gặp ai cũng vui vẻ dừng lại, hỏi thăm đôi ba câu rồi mới chịu đi. Ông chồng lại rất vui tính với nụ cười hiền hòa thật dễ thương. Rồi dần dà, Bà bị đau, không còn nhớ gì, đi gõ cửa hết nhà này đến nhà khác, có khi quên cả lối về! Cuối cùng thì không còn đi được n
28/07/2017(Xem: 4436)
Sau những cơn nắng luộc da vào Hạ, trời Hà Nội có vẻ dịu hẳn, phố phừng dập dìu xe cộ. Căn nhà nằm sâu trong đoạn đường vừa khai phóng, đối diện với một cao ốc, tầng dưới là siêu thị đơn điệu vài mặt hàng không đủ cho khách vãng lai dán mắt nhìn. Căn nhà của cô Chung, trưởng đoàn từ thiện, là cứ điểm để nhóm Từ Tâm - Hiểu và Thương hàng năm vê đây làm nơi phát xuất chuyến lữ hành mãi tận vùng Tây Bắc, cận biên Việt-Trung. Gia Lâm là một huyện ngoại thành phía đông của thành phố Hà Nội, cách trung tâm thành phố 8 km. Đây là cửa ngõ để đi sang các tỉnh thành phía Đông như Hải Phòng, Hải Dương, Hưng Yên...
04/07/2017(Xem: 10533)
Từ hai ba tháng qua, hầu như ngày nào tôi cũng dành thì giờ ôn lại các bài học của Bụt Thích Ca trong tập phim Buddha, do nhà sản xuất Modi đưa lên mạng Youtube từ năm 2016. Khi được bạn bè giới thiệu cuốn phim này, tôi coi mấy đoạn đầu, rồi nhảy cách tới đoạn Buddha thành đạo (tập 34), và coi tiếp sau đó tập 41 tả cảnh Buddha về thánh Ca Tỳ La Vệ thăm gia đình. Đoạn 41 này rất hay, đạo diễn và tài tử đều diễn tảđược tình cảm của Buddha và bà vợ mà ông rất thương yêu trước khi đi tu.
02/07/2017(Xem: 5862)
Tống Văn đời Đường được bổ nhiệm làm tri phủ Tô Châu. Là người nổi tiếng thanh liêm, chính trực nhưng lại trọng Nho, khinh Thích. Khi về trấn nhậm Tô Châu nghe nói sự cụ Chùa Hàn Sơn là bậc tu hành đắc đạo nhưng không tin. Tống Văn lý luận rằng: Tụng kinh gõ mõ, lóc cóc leng keng ai làm chẳng được. Người tu hành không quyền thế, không binh lính trong tay, không hiền lành thì hung dữ với ai. Lại nữa, có tỏ ra hiền lành thì thập phương mới cúng kiếng chứ hung dữ thì chỉ có nước bỏ chùa đi ăn mày…cho nên tìm cách thử.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]