Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chuyện 01 - 22

17/10/201202:05(Xem: 9198)
Chuyện 01 - 22

CHUYỆN CỬA THIỀN
Tác giả: Minh Đức Triều Tâm Ảnh

Lô Sơn

Khách là người đàn ông chưa đến tuổi trung niên, ăn mặc chải chuốt, đến chùa vào một buổi chiều mùa xuân. Khách đưa mắt nhìn chung quanh rồi hỏi chú Đa Trí:

- Chùa Huyền Không ở đâu vậy chú?

Đa Trí ra giọng thiền sư thi sĩ:

- Nếu không phải là Tô Đông Pha thì dù đang ở tại Lô Sơn, chú vẫn cứ đi tìm Lô Sơn như thường!

-!?


Khi Đa Thức bắt chước cổ nhân

Một vị y sĩ đến chùa chích ngừa bệnh dịch tả. Xong xuôi, Đa Thức lân la lại gần vị y sĩ:

- Chú nè! Đa Thức hỏi nhỏ - chú đi chích ngừa dịch tả cho người ta mà chú có chích ngừa cho chính mình không?

- Dạ, có chớ! Vị y sĩ thật thà vén tay áo mình lên - tôi đã chích ngừa, còn sưng đây này!

- Không phải! Đa Thức lắc đầu nguầy nguậy - Không phải cái đó. Đó là cái bệnh dịch tả thời khí, cấp tính. Cháu muốn nói đến cái bệnh dịch tả kinh niên, truyền đời, truyền kiếp kia!

Vị y sĩ cau mày:

- Chú nói gì, tôi không hiểu.

Bất đồ, Đa Thức cười lạt, đứng bật dậy:

- Rứa mà cũng đòi làm y sĩ chữa bệnh cho thiên hạ! Ngu ơi là ngu!

Vị y sĩ tím mặt, giận run lẩy bẩy.

Đa Thức mỉm cười, cất giọng huờ hưỡn:

- Cái đó! Cái đó! Nó vừa ló một cái đầu rắn dịch tả thâm căn cố đế bất trị ra đấy! Còn một con nữa. Rứa chú đã tiêm ngừa bao giờ chưa?

Y sĩ nghe xong, cung tay xá, khuôn mặt dịu lại.


Hoa thật và hoa ni-lông

Vị khách Tăng từ miền Nam ra, biếu chùa một bó hoa ni-lông và một giò phong lan.

Khi trao hoa ni-lông, vị Tăng nói:

- Loại hoa này quí và đẹp. Lúc cắm lên, mọi người sẽ trầm trồ vì họ tưởng là hoa thật.

Và khi trao giò lan:

- Còn đây là vương giả chi hoa, rất tuyệt vời, khi nở trông đẹp như hoa ni-lông vậy!


Còn bị kẹt

Đa Văn từ lâu được nổi tiếng là nghe nhiều, nhớ giỏi. Hôm kia, chẳng biết suy nghĩ được điều gì mà chú hăm hở chạy vào gặp nhà sư, lễ phép và khách sáo nói:

- Con xin được hầu chuyện với thầy.

- Được, nhà sư gật - có gì con hãy nói.

Đa Văn trịnh trọng :

- Thầy có biết thầy bị kẹt gì không?

- À, hay lắm! Con cứ thẳng thắn mà chỉ rõ ra đi!

Đa Văn nói:

- Một cái tên là đã kẹt rồi! Mà thầy, nào là tục danh, bí danh, pháp danh, tự hiệu,... sao mà thầy ham danh quá vậy?

Nhà sư :

- A... ơ...!

Đa Văn bước ra, nói vọng lại:

- May mà thầy không có cả hàng chục chức vụ đi theo sau, nếu có, con mà không nhớ hết thì còn gì là "đa văn" này nữa!


Thức biến

Một cư sĩ chuyên nghiên cứu và dạy Duy Thức mấy chục năm. Một hôm, ông ta đến thăm nhà sư và kể huyên thuyên những sở đắc của mình. Cuối cùng, vị ấy kết luận:

- Tất cả đều do thức biến, chỉ là thức biến! Cả thầy, tôi, tài sản, y áo, vật thực... tôi đều có thể lý luận rất rõ ràng và cụ thể là do thức biến ráo trọi!

Nhà sư gật đầu tán thưởng. Đến giờ ngọ trai, nhà sư lặng lẽ ăn một mình. Khách đợi hoài chẳng thấy ai mời cơm trưa. Nhà sư thủng thỉnh ăn, rồi đưa tay chỉ vào mâm cơm, thong thả nói:

- Phần cơm hủ lậu quê mùa này là do "nhà trù biến" chứ bần tăng chẳng có tài cán gì. Đạo hữu có sẵn thần thông Duy Thức quảng đại, thì cứ tùy nghi biến hóa một mâm cơm "rõ ràng và cụ thể" mà dùng vậy nhé!


Vô công

Bữa nọ nhân một đêm trăng sáng, nhà sư cao hứng xuống sông gánh nước. Khi nâng gánh, vì mất thăng bằng nên nước đổ ào xuống sông.

Vô Văn đang đứng trong biền bắp, thấy vậy, bật ra hai câu thơ, ngâm sang sảng:

- “Nhà sư làm việc vô công
Dưới trăng gánh nước, đổ sông ra về!"

Đa Văn đang dạo chơi, tình cờ nghe được, liền ngâm tiếp:

- “Ví như gánh vác Bồ-đề
Tâm không muôn việc, tỉnh mê bỏ ngoài!"

Nhà sư đứng thẳng dậy, chống đòn gánh nói lớn:

- Gánh nước mất thăng bằng thì nó đổ, có gì là tỉnh, là mê, là Bồ-đề ở đây hử? Chữ với nghĩa!


Trồng khoai

Hai chú đang cuốc đất.

Vô Văn nói:

- Kể cả việc trồng khoai, một vị Bồ-tát cũng cần kinh qua và chứng nghiệm.

Đa Lễ hỏi:

- Có lẽ là nhằm tích lũy phương-tiện-trí để rộng độ chúng sanh phải không?

- Không phải!

- Vậy trồng khoai để làm gì?

- Để ăn độn chứ gì nữa! Chú không biết hổm rày gạo quá đắt hay sao?


Kẹt đạo! Kẹt đời!

Uống xong tuần trà, khách nhìn nhà sư cười cười nói:

- Tôi từ phương xa tới đây, áo lấm bụi đường, mặt chưa kịp rửa đã được nhà sư cho hầu trà, thật là duyên vạn hạnh. Nhưng tôi còn có cái khao khát hơn, ấy là sự hiểu biết. Rất mong nhà sư trả lời cho vài câu hỏi, nhưng xin nhà sư...

- Đạo hữu cứ nói!

- Dạ, xin nhà sư đừng dùng những từ như khổ đế, trí tuệ, đức tin, nhân quả, nghiệp báo... Tóm lại là nhà sư đừng sử dụng một thuật ngữ nào thường dùng trong Tam Tạng. Nghe hoài những danh từ, chữ nghĩa của Đạo, tôi chán lắm! Cái ấy gọi là kẹt lời, kẹt chữ, kẹt Đạo vậy!

Nhà sư ôn tồn nói:

- Cũng được thôi! Nhưng bần tăng cũng có một đề nghị!

Khách mau mắn:

- Dạ được! Nhà sư cứ nói!

- Vâng, bần tăng cũng xin đạo hữu đặt những câu hỏi nào đừng có những từ ngữ, lời tiếng thường dùng ở trong đời. Vì cái ấy cũng gọi là kẹt lời, kẹt chữ, kẹt Đời vậy!

Khách ngẩn người giây lâu, rồi... nhấp một ngụm trà!


Tình yêu và cục đá

Một thanh niên Phật tử có lẽ là suy gẫm đạo lý đã lâu nên hôm kia đến nói chuyện với Đa Trí:

- Nếu tôi yêu cục đá, tình yêu ấy có phạm tội không?

Đa Trí lắc đầu nói:

- Yêu là không được rồi, đừng yêu là hơn.

- Đừng yêu thì tôi sợ sẽ trở thành cục đá!

Đa Trí ỡm ờ:

- Thì tốt thôi!

Người Phật tử nhăn mày:

- Tôi không hiểu!

- Có gì mà không hiểu! Cục đá thì có bao giờ yêu cục đá đâu mà sợ!


Kẻ ở ngoài tương quan

Một Ni cô đến gặp nhà sư, nghiêm trang nói:

- Có một thời pháp, nhà sư thuyết rằng: "Thế giới tương quan là đau khổ", có phải vậy không?

Nhà sư đáp:

- Đúng thế!

Ni cô bèn nói:

- Vậy giáo lý đã bị giảng sai, nhà sư có biết không?

Hơi bất ngờ, nhà sư hỏi:

- Ở chỗ nào, Ni cô cứ dạy!

- Không dám! Nhưng con đã từng suy nghiệm: "Có những pháp không nằm trong thế giới tương quan mà vẫn đưa đến đau khổ."

- Xin Ni cô trình bày cho rõ ràng hơn.

- Dạ! Ví dụ, con thấy thế giới tương quan là rắc rối, não loạn, xung đột... con bèn rút lui một mình, tịnh cốc, tĩnh cư, sống hạnh không giao tiếp với mọi người!

- Vâng, rồi chuyện gì xảy ra?

- Dạ, ni chúng đồng đạo nói cạnh, nói khóe, nói xa, nói gần rằng con là kẻ cao thượng hảo, kiêu căng, ngã mạn... Họ nói những điều mà con không thể chịu nổi. Vậy là, "không tương quan" mà vẫn đưa đến đau khổ! Từ rày về sau, nhà sư dạy pháp nên cẩn thận và dè dặt hơn mới được!

Nhà sư mỉm cười:

- Ni cô muốn làm Thượng đế chắc?

-!?

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/02/2015(Xem: 4716)
Một trong tôn giáo cổ xưa Có thầy tu nọ rất ưa tế thần Tuy ông nổi tiếng xa gần Nhưng mà mê muội tâm thần nhiều thay. Một hôm ông chọn dê này Cho rằng thích hợp, giết ngay tế thần Nghĩ suy lầm lạc vô ngần:
25/01/2015(Xem: 6658)
Tác phẩm Một Đóa Sen, được diễn nói về vận hành tầm sư học đạo của Sư bà Thích Nữ Diệu Từ, thật là gian truân trăm bề, được thấy từ khi mới vào “Thiền Môn Ni Tự” ở các cấp Khu Ô Sa Di, Hình Đồng Sa Di, ứng Pháp Sa Di và Tỳ Kheo Ni ở tuổi thanh niên mười (10) hạ lạp rồi, mà vẫn còn gian nan trên bước đường hành hoạt đạo Pháp. Nhưng Sư bà vẫn định tâm, nhẫn nhục , tinh tấn Ba la mật mà tiến bước lên ngôi vị Tăng Tài PGVN ở hai lãnh vực văn hóa quốc gia và Phật Giáo Việt Nam một cách khoa bảng. Nếu không nói rằng; tác phẩm “Một Đóa Sen và Pháp thân” của Sư bà Diệu Từ, là cái gương soi cho giới Ni PGVN VN hiện tại và hậu lai noi theo…
24/01/2015(Xem: 4882)
Mỗi sáng sớm khi sương còn mù mịt trên sông, chiếc thuyền con của lão già đã là đà rẽ nước, hướng về bờ – lúc thì bờ đông, lúc thì bờ tây, nơi những ngôi nhà tranh và những chiếc ghe nhỏ tụ tập. Mái chèo khua nhè nhẹ như thể sợ động giấc ngủ của thế nhân. Chẳng ai biết chắc lão có gia đình, nhà cửa ở đâu hay không. Nhưng người ta có thể đoán chiếc thuyền con ấy chính là nhà của lão, vì lão phơi thuốc, xắc thuốc, nấu thuốc ngay trên đó. Trên thuyền không còn ai khác. Ban đêm, thuyền của lão neo ở đâu không ai biết, nhưng sáng sớm thì thấy lù lù xuất hiện trên sông hoặc nơi bờ cát. Lão già đến và đi, một mình. Mỗi ngày xách cái túi nhỏ rời thuyền, thường là đi hái thuốc trên núi, ven rừng, bờ suối, có khi vào làng chữa bệnh cho bá tánh rồi ghé chợ mua vài thứ lĩnh kĩnh.
21/01/2015(Xem: 10119)
1. Chân như đạo Phật rất mầu Tâm trung chữ Hiếu niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân Nhân là cứu độ trầm luân muôn loài. 5. Thần thông nghìn mắt nghìn tay Cũng trong một điểm linh đài hóa ra,
16/01/2015(Xem: 3644)
Sau 30-4-75, tất cả giáo chức chúng tôi đều phải đi học tập chính trị trong suốt 3 tháng hè mà họ gọi nôm na là "bồi dưỡng nghiệp vụ". Một buổi chiều sau mấy ngày "bồi dưỡng", tôi đạp xe lang thang qua vùng Trương minh Giảng, tình cờ gặp Báu - một người học trò năm xưa, rất xưa, đang ngơ ngẩn đứng trước cửa nhà. Dừng xe đạp, tôi chào: - Báu hả? Phải em là Trương thị Báu không? Có nhớ ra cô không? Báu giương mắt nhìn tôi, nhìn đi nhìn lại rồi nghiêng đầu lại nhìn...Em không nhớ nổi... Tôi đã thoáng thấy được một tâm thần bất thường qua thần sắc cũng như qua đôi mắt trống rỗng vô hồn!
16/01/2015(Xem: 4841)
Năm 1954 ông Thiện khăn gói đùm đề đưa mẹ, vợ và hai đứa con gái xuống con tàu há mồm vào Nam.Trên bờ, Thụ, người em trai của ông còn đưa tay vẫy vẫy. Đêm hôm qua, ông và người em trai bàn rất nhiều về chuyến ra đi này.Người em nói: - Đất nước đã hòa bình, độc lập, anh nên ở lại, dù gì cũng là nơi chôn nhau cắt rốn.Vào Nam xứ lạ quê người, chân ướt chân ráo trăm bề khổ sở... Ông Thiện đã trả lời em:
15/01/2015(Xem: 5066)
Trong cả thành phố này, anh chị chỉ có tôi là chỗ thân nhất, vừa là thầy vừa là bạn. Buổi sáng anh gọi phone bảo trưa nay đến đón tôi về nhà dùng cơm cho vui. Hôm nay là sinh nhật của thằng Alexander con một của anh chị.
14/01/2015(Xem: 7582)
Tiếng Hồng chung Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang nói riêng và các chùa trong thành phố Nha trang nói chung, sớm khuya ai cũng có thể nghe được, nhưng nghe để “Trí tuệ lớn” và “Bồ-đề sinh” thì tùy theo “phiền não” của đối tượng nghe có vơi nhẹ hay không? Riêng với nhà văn Võ Hồng, qua tác phẩm “Tiếng chuông triêu mộ” cho thấy Trí tuệ và Bồ đề của ông sanh trưởng tốt. Nhưng nhân duyên như thế cũng chưa đủ, ông là giáo sư của PHV, của trường Bồ Đề, là thiện tri thức của các bậc cao Tăng ở đồi Đông và đồi Tây non Trại Thủy. Có thế mới có truyện ngắn “Cây khế lưng đồi”, có tùy bút “Con đường thanh tịnh”. Thưa thầy Võ Hồng, chừng ấy đủ rồi, đủ cho PHV đi vào lịch sử văn học, đủ cho 100 năm sau, 1000 năm sau hay nhiều hơn thế nữa, nhìn thấy PHV uy nghi như một Linh Thứu thời Phật và cũng cho thấy các bậc cao Tăng Miền Trung nói riêng xứng đáng là những Sứ giả Như Lai đầy trách nhiệm đối với sự trường tồn của Phật giáo Việt Nam.
09/01/2015(Xem: 4256)
Tháng 10 năm 1962, TT Chủ Tịch Ủy Ban Liên Phái… nhờ Tôi đi công tác Vũng Tàu, Tôi đi chuyến xe đò lúc 8g30 sáng, xe chạy vừa khỏi hãng xi-man Hà Tiên, thì có 3 người đón xe. Anh tài xế nói với tôi : “Thầy vui lòng xuống hàng ghế phía dưới để cho “mấy cha”ngồi, vui nghen Thầy”! Tôi lách mình qua khoản trống thì có 2 vị đưa tay đón và đở nhường chỗ ngồi còn nói lớn: “Ngộ ha, cha quí hơn Thầy “! Tôi sợ gây chuyện không vui, nên đưa tay và lắc đầu xin yên lặng. Vì đương thời bấy giờ bóng dáng của các áo đen có nhiều sát khí thế lực! Nhưng, Mộc dục tịnh, nhi phong bất đình 木欲淨而風不亭.Xe chạy êm ả, gió lùa mát rượi.
26/12/2014(Xem: 13490)
Phât tử Chơn Huy ở Hoa Kỳ về có đem theo tập tự truyện dày của Tỳ Kheo Yogavacara Rahula. Cô nói truyện rất hay, khuyên tôi đọc và nhờ tôi dịch ra Việt ngữ để phổ biến trong giới Phật tử Việt Nam. Câu chuyện rất lý thú, nói về đời của một chàng trai Mỹ đi từ chỗ lang bạt giang hồ đến thiền môn. Truyện tựa đề "ONE NIGHT'S SHELTER (From Home to Homelessness)--The Autobiography of an American Buddhist Monk". Tôi đọc đi rồi muốn đọc lại để thấu đáo chi tiết trung thực của một đoạn đời, đời Thầy Yogavacara Rahula. Nhưng thay vì đọc lại, tôi quyết định dịch vì biết rằng dịch thuật là phương pháp hay nhứt để hiểu tác giả một cách trọn vẹn. Vả lại, nếu dịch được ra tiếng Việt, nhiều Phật tử Việt Nam sẽ có cơ duyên chia sẻ kinh nghiệm quý báu của Thầy Rahula hơn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]