Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

24. Nước mắt Mẹ hiền

29/11/201115:17(Xem: 4357)
24. Nước mắt Mẹ hiền
TRUYỆN CỔ PHẬT GIÁO
TRUYỆN THƠ - TẬP 2
Tâm Minh Ngô Tằng Giao
Diệu Phương tái bản 2002

(24)

Nước mắt Mẹ hiền

Thuở xưa có một nhà buôn

Nghe lời biển gọi, căng buồm ra khơi

Nổi trôi buôn bán khắp nơi

Ghé bờ xa lạ, sống đời lênh đênh.

Hơn mười năm thoáng trôi nhanh

Nhà buôn giàu có, trở thành phú ông

Cửa nhà to đẹp vô cùng

Cạnh ngay bãi biển chập chùng sóng vang.

*

Vợ nhà buôn rất đảm đang

Nhưng trên nét mặt luôn mang vẻ buồn

Âu lo theo những chuyến buôn

Theo cơn bão tố dập dồn hiểm nguy

Chồng đi có mệnh hệ chi

Con thơ, vợ dại dễ gì sống yên,

Con trai lên sáu, lành hiền

Mẹ nhìn khuây khỏa nỗi niềm lo âu.

*

Một đêm thao thức canh thâu

Trời đông lạnh lẽo, mưa sầu tuôn rơi

Chồng đi buôn đã lâu rồi

Phương xa nhắn tiếng ngày mai trở về.

Vợ đang lo sợ tái tê

Chợt nghe biển động, bốn bề cuồng quay

Gió gầm vang, sóng dâng đầy

Thâu đêm, suốt sáng. Qua ngày hôm sau

Đoàn thuyền buôn chẳng thấy đâu

Mọi người ra bãi lo âu ngóng chờ

Mãi khi gần tối mịt mờ

Một thuyền sống sót ghé bờ mà thôi

Các tàu, thuyền khác đắm rồi

Vợ nhà buôn chợt rụng rời đớn đau

Chồng mình vùi xác biển sâu

Than ôi đất thảm, trời sầu là đây!

Tang thương ngất lịm thân gầy,

Còn bao hy vọng trút đầy vào con.

*

Thời gian như sóng dập dồn

Con nay khỏe mạnh, lớn khôn nên người

Chàng luôn nhìn biển xa vời

Như thầm mơ ước cuộc đời phiêu lưu.

Một hôm Chàng hỏi Mẹ yêu:

"Cha con thời trước đã theo nghề gì?"

Mẹ Chàng lo sợ, dấu che:

"Chỉ buôn trong nước, không hề đi xa!"

Chàng bèn theo gót giống Cha

Đi buôn quanh quẩn gần nhà mà thôi,

Tiền vàng được bốn đồng lời

Mang về biếu mẹ giúp người khó khăn.

*

Một hôm thiên hạ nói rằng:

"Cha Chàng từng có cửa hàng dầu thơm!"

Chàng bèn suy tính thiệt hơn

Đổi nghề, mở tiệm dầu thơm trong vùng

Lần này lời những tám đồng

Chàng đưa nhờ Mẹ cúng trong các chùa.

*

Có người lại nói: "Ngày xưa

Cha Chàng chuyên bán ngọc ngà, nữ trang!"

Chuyển qua nghề mới dễ dàng

Chàng lời mười sáu đồng vàng ngay thôi!

Chẳng cần buôn bán xa xôi

Chuyến sau lời được ba mươi hai đồng,

Mẹ mang giúp kẻ khốn cùng,

Và làm công đức khắp trong chùa chiền.

*

Cuối cùng có kẻ nói thêm:

"Bán buôn đường biển cũng nên theo nghề

Noi gương Cha thuở xưa kia!"

Lời gây kích thích! Chàng nghe bồi hồi!

Vẳng như tiếng gọi biển khơi

Trùng dương thách đố chí người thanh niên.

Bán vàng, gom vốn, mua thuyền

Chuyến này lòng quyết buôn miền xa xôi,

Chàng về tìm Mẹ trình lời

Mẹ nghe sửng sốt, lệ rơi hãi hùng!

Mẹ ngăn: "Nguy hiểm vô cùng

Cha con đi biển đã từng vùi thây

Khổ đau lòng Mẹ còn đầy

Nỡ nào bỏ Mẹ lất lây một mình!

Con đi trời biển lênh đênh

Mẹ buồn khô héo chắc đành chết thôi!"

*

Thanh niên chẳng chịu nghe lời

Quyết tâm! Cãi Mẹ!Ra khơi! Căng buồm!

Rủ thêm thuyền bạn đi buôn

Cùng nhau gom lại một đoàn thật đông.

Mẹ nhìn cảnh tượng não lòng:

"Trước Cha đã vậy! Giờ con khác nào!"

Mẹ lăn xuống đất thảm sao

Ôm chân con lại, khóc gào cản ngăn,

Thanh niên thoáng chút băn khoăn

Thế rồi cương quyết rút chân ra liền

Bước qua đầu của Mẹ hiền

Không quay nhìn lại. Xuống thuyền ra đi.

Mẹ ngồi dậy, dẹp sầu bi

Sợ con quả báo nên chi nguyện cầu:

"Cầu con may mắn dài lâu

Tai qua, nạn khỏi, trước sau an bình,

Mong con vẫn hái quả lành

Dù ngang đầu Mẹ nỡ đành bước qua!"

*

Đoàn thuyền vượt sóng ra xa

Bình an vô sự trong ba ngày đầu,

Vài ngày sau giữa biển sâu

Gặp cơn bão lớn thuyền, tàu nát tan,

Thanh niên may mắn vô vàn

Đeo trên tấm ván trôi ngang xác người

Dạt vào bến lạ xa vời

Một mình lê bước tìm nơi an lành.

*

Mấy ngày vất vả trôi nhanh

Tới thành phố nọ. Vây quanh đón chào

Bốn nàng Tiên đẹp xiết bao

Mời Chàng ở lại vườn đào chung vui

Hưởng nhiều lạc thú trên đời

Mỗi Tiên trang điểm đeo nơi ngực nàng

Một đồng tiền lấp lánh vàng

Giống tiền Chàng biếu Mẹ Chàng trước đây.

Ít ngày hưởng lộc vui vầy

Chàng rời Tiên nữ nơi này. Rong chơi!

*

Ghé vào thành phố thứ hai.

Tám Tiên chào đón lả lơi, dịu dàng.

Điểm trang trên ngực tám nàng

Tám đồng tiền giống tiền vàng ngày xưa.

Hưởng vui, hưởng lộc say sưa

Rồi Chàng lê gót giang hồ đi xa.

*

Ghé vào thành phố thứ ba

Bao Tiên đẹp đẽ ùa ra đón mời

Mười sáu nàng. Đẹp tuyệt vời.

Thân người quyến rũ, ngực người điểm trang

Đủ mười sáu đồng tiền vàng

Hết lòng cung phụng cho Chàng sớm trưa.

*

Lãng du quen thói đẩy đưa

Chàng vào thành phố thứ tư đông người

Một bầy Tiên nữ xinh tươi

Xiêm y lộng lẫy, ba mươi hai nàng

Ba mươi hai đồng tiền vàng

Tiên đeo trước ngực, nhịp nhàng múa ca

Đón Chàng trong cánh tay ngà

Linh đình yến tiệc, nguy nga cung đình

Đồng vàng phô sắc lung linh

Khiến Chàng nhớ lại chuyện mình xưa kia

Tiền lời đưa Mẹ cúng đi

Giờ đây phước đức hưởng về đẹp thay!

Chỉ gần Tiên được ít ngày

Rồi Chàng lại muốn chia tay các nàng

Dù Tiên hết sức khuyên can

Vẳng như có tiếng gọi Chàng thiết tha!

*

Chuyến này đi thật là xa

Tới thành phố nọ mở ra đón chào

Bước qua cửa sắt Chàng vào

Cửa liền đóng lại, vách cao bốn bề,

Dấn thêm một quãng đường đi

Chợt nhìn cảnh tượng gớm ghê rùng mình,

Một người đang chịu cực hình

Trên đầu phải đội một vành sắt nung

Sắt đang cháy đỏ phừng phừng

Khiến bao máu mủ không ngừng tuôn rơi.

Thương tâm Chàng hỏi đôi lời

Nạn nhân kể lể: "Luật trời tránh đâu!

Ta từng làm Mẹ khổ đau

Giờ đây quả báo trước sau đến liền

Chịu hình phạt khổ triền miên

Chờ người bất hiếu thay phiên gánh giùm!"

*

Chàng đang suy nghĩ mung lung

Chợt đâu vành lửa bập bùng bay qua

Chụp lên đầu, nóng cháy da

Máu tuôn, khói bốc thật là thảm thương.

Người kia trở lại bình thường

Tai qua, nạn khỏi, vết thương đã lành,

Nhắn Chàng: "Bạn chịu cực hình

Đến khi có kẻ thay mình ghé đây!".

*

Chao ơi! Đau đớn dâng đầy

Da này lửa cháy! Thịt này sắt nung!

Tuy Chàng khổ sở vô cùng

Nhưng lòng tự nghĩ: "Ta đừng trông mong

Cực hình cứ mãi xoay vòng

Phải nên chấm dứt ngay trong kiếp này,

Đừng ai chịu cảnh đọa đầy,

Đừng ai làm Mẹ hao gầy khổ đau!"

Chàng bèn khe khẽ nguyện cầu:

"Tôi xin phát nguyện trước sau một lời

Đội vành này mãi trên đời

Cực hình gánh chịu cho người trần gian!".

*

Tình thương nở đẹp vô vàn

Trong lời phát nguyện chứa chan tâm thành

Khiến Chàng hưởng phước thật nhanh

Tội tình giải thoát, cực hình tiêu tan,

Vành nung kia loé ánh vàng

Đột nhiên rời khỏi đầu Chàng bay cao

Chàng lành lặn như thuở nào

Quay về cuộc sống với bao an lành.

Mẹ như hiện giữa mây xanh

Dịu dàng vẫy gọi con nhanh trở về.


(phỏng theo bản văn xuôi của Quảng Huệ)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/02/2015(Xem: 4754)
Một trong tôn giáo cổ xưa Có thầy tu nọ rất ưa tế thần Tuy ông nổi tiếng xa gần Nhưng mà mê muội tâm thần nhiều thay. Một hôm ông chọn dê này Cho rằng thích hợp, giết ngay tế thần Nghĩ suy lầm lạc vô ngần:
25/01/2015(Xem: 6723)
Tác phẩm Một Đóa Sen, được diễn nói về vận hành tầm sư học đạo của Sư bà Thích Nữ Diệu Từ, thật là gian truân trăm bề, được thấy từ khi mới vào “Thiền Môn Ni Tự” ở các cấp Khu Ô Sa Di, Hình Đồng Sa Di, ứng Pháp Sa Di và Tỳ Kheo Ni ở tuổi thanh niên mười (10) hạ lạp rồi, mà vẫn còn gian nan trên bước đường hành hoạt đạo Pháp. Nhưng Sư bà vẫn định tâm, nhẫn nhục , tinh tấn Ba la mật mà tiến bước lên ngôi vị Tăng Tài PGVN ở hai lãnh vực văn hóa quốc gia và Phật Giáo Việt Nam một cách khoa bảng. Nếu không nói rằng; tác phẩm “Một Đóa Sen và Pháp thân” của Sư bà Diệu Từ, là cái gương soi cho giới Ni PGVN VN hiện tại và hậu lai noi theo…
24/01/2015(Xem: 4914)
Mỗi sáng sớm khi sương còn mù mịt trên sông, chiếc thuyền con của lão già đã là đà rẽ nước, hướng về bờ – lúc thì bờ đông, lúc thì bờ tây, nơi những ngôi nhà tranh và những chiếc ghe nhỏ tụ tập. Mái chèo khua nhè nhẹ như thể sợ động giấc ngủ của thế nhân. Chẳng ai biết chắc lão có gia đình, nhà cửa ở đâu hay không. Nhưng người ta có thể đoán chiếc thuyền con ấy chính là nhà của lão, vì lão phơi thuốc, xắc thuốc, nấu thuốc ngay trên đó. Trên thuyền không còn ai khác. Ban đêm, thuyền của lão neo ở đâu không ai biết, nhưng sáng sớm thì thấy lù lù xuất hiện trên sông hoặc nơi bờ cát. Lão già đến và đi, một mình. Mỗi ngày xách cái túi nhỏ rời thuyền, thường là đi hái thuốc trên núi, ven rừng, bờ suối, có khi vào làng chữa bệnh cho bá tánh rồi ghé chợ mua vài thứ lĩnh kĩnh.
21/01/2015(Xem: 10160)
1. Chân như đạo Phật rất mầu Tâm trung chữ Hiếu niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân Nhân là cứu độ trầm luân muôn loài. 5. Thần thông nghìn mắt nghìn tay Cũng trong một điểm linh đài hóa ra,
16/01/2015(Xem: 3672)
Sau 30-4-75, tất cả giáo chức chúng tôi đều phải đi học tập chính trị trong suốt 3 tháng hè mà họ gọi nôm na là "bồi dưỡng nghiệp vụ". Một buổi chiều sau mấy ngày "bồi dưỡng", tôi đạp xe lang thang qua vùng Trương minh Giảng, tình cờ gặp Báu - một người học trò năm xưa, rất xưa, đang ngơ ngẩn đứng trước cửa nhà. Dừng xe đạp, tôi chào: - Báu hả? Phải em là Trương thị Báu không? Có nhớ ra cô không? Báu giương mắt nhìn tôi, nhìn đi nhìn lại rồi nghiêng đầu lại nhìn...Em không nhớ nổi... Tôi đã thoáng thấy được một tâm thần bất thường qua thần sắc cũng như qua đôi mắt trống rỗng vô hồn!
16/01/2015(Xem: 4881)
Năm 1954 ông Thiện khăn gói đùm đề đưa mẹ, vợ và hai đứa con gái xuống con tàu há mồm vào Nam.Trên bờ, Thụ, người em trai của ông còn đưa tay vẫy vẫy. Đêm hôm qua, ông và người em trai bàn rất nhiều về chuyến ra đi này.Người em nói: - Đất nước đã hòa bình, độc lập, anh nên ở lại, dù gì cũng là nơi chôn nhau cắt rốn.Vào Nam xứ lạ quê người, chân ướt chân ráo trăm bề khổ sở... Ông Thiện đã trả lời em:
15/01/2015(Xem: 5098)
Trong cả thành phố này, anh chị chỉ có tôi là chỗ thân nhất, vừa là thầy vừa là bạn. Buổi sáng anh gọi phone bảo trưa nay đến đón tôi về nhà dùng cơm cho vui. Hôm nay là sinh nhật của thằng Alexander con một của anh chị.
14/01/2015(Xem: 7882)
Tiếng Hồng chung Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang nói riêng và các chùa trong thành phố Nha trang nói chung, sớm khuya ai cũng có thể nghe được, nhưng nghe để “Trí tuệ lớn” và “Bồ-đề sinh” thì tùy theo “phiền não” của đối tượng nghe có vơi nhẹ hay không? Riêng với nhà văn Võ Hồng, qua tác phẩm “Tiếng chuông triêu mộ” cho thấy Trí tuệ và Bồ đề của ông sanh trưởng tốt. Nhưng nhân duyên như thế cũng chưa đủ, ông là giáo sư của PHV, của trường Bồ Đề, là thiện tri thức của các bậc cao Tăng ở đồi Đông và đồi Tây non Trại Thủy. Có thế mới có truyện ngắn “Cây khế lưng đồi”, có tùy bút “Con đường thanh tịnh”. Thưa thầy Võ Hồng, chừng ấy đủ rồi, đủ cho PHV đi vào lịch sử văn học, đủ cho 100 năm sau, 1000 năm sau hay nhiều hơn thế nữa, nhìn thấy PHV uy nghi như một Linh Thứu thời Phật và cũng cho thấy các bậc cao Tăng Miền Trung nói riêng xứng đáng là những Sứ giả Như Lai đầy trách nhiệm đối với sự trường tồn của Phật giáo Việt Nam.
09/01/2015(Xem: 4286)
Tháng 10 năm 1962, TT Chủ Tịch Ủy Ban Liên Phái… nhờ Tôi đi công tác Vũng Tàu, Tôi đi chuyến xe đò lúc 8g30 sáng, xe chạy vừa khỏi hãng xi-man Hà Tiên, thì có 3 người đón xe. Anh tài xế nói với tôi : “Thầy vui lòng xuống hàng ghế phía dưới để cho “mấy cha”ngồi, vui nghen Thầy”! Tôi lách mình qua khoản trống thì có 2 vị đưa tay đón và đở nhường chỗ ngồi còn nói lớn: “Ngộ ha, cha quí hơn Thầy “! Tôi sợ gây chuyện không vui, nên đưa tay và lắc đầu xin yên lặng. Vì đương thời bấy giờ bóng dáng của các áo đen có nhiều sát khí thế lực! Nhưng, Mộc dục tịnh, nhi phong bất đình 木欲淨而風不亭.Xe chạy êm ả, gió lùa mát rượi.
26/12/2014(Xem: 13578)
Phât tử Chơn Huy ở Hoa Kỳ về có đem theo tập tự truyện dày của Tỳ Kheo Yogavacara Rahula. Cô nói truyện rất hay, khuyên tôi đọc và nhờ tôi dịch ra Việt ngữ để phổ biến trong giới Phật tử Việt Nam. Câu chuyện rất lý thú, nói về đời của một chàng trai Mỹ đi từ chỗ lang bạt giang hồ đến thiền môn. Truyện tựa đề "ONE NIGHT'S SHELTER (From Home to Homelessness)--The Autobiography of an American Buddhist Monk". Tôi đọc đi rồi muốn đọc lại để thấu đáo chi tiết trung thực của một đoạn đời, đời Thầy Yogavacara Rahula. Nhưng thay vì đọc lại, tôi quyết định dịch vì biết rằng dịch thuật là phương pháp hay nhứt để hiểu tác giả một cách trọn vẹn. Vả lại, nếu dịch được ra tiếng Việt, nhiều Phật tử Việt Nam sẽ có cơ duyên chia sẻ kinh nghiệm quý báu của Thầy Rahula hơn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]