Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

07. Giữ bò

16/09/201100:39(Xem: 7813)
07. Giữ bò

Thích Nhất Hạnh
TÌNH NGƯỜI
Truyện của tác giả khi còn là chú điệu
Lá Bối xuất bản

7. Giữ bò

Ở chùa chúng tôi có nuôi bốn con bò. Chuồng bò ở dưới vườn dứa. Thỉnh thoảng, vào những buổi trưa nắng chang chang, chú Tâm Mãn thường rủ tôi xuống vườn dứa, ngồi dưới bóng mát những cây sến và hai anh em sau khi gọt dứa, vừa ăn vừa nhìn con bò mẹ đang ngẫm nghĩ chuyện đời và mấy con bò đang đi đi lại lại trong chuồng. Thực ra chùa nuôi bò không phải là để uống sữa, cũng không phải là để làm thịt (ai cũng biết là ờ chùa chúng tôi người nào cũng ăn chay, trừ chú mèo mướp. Nhưng chú này không phải của chùa nuôi, chú ở đâu tới hồi nào chúng tôi không hay và nhất định quanh quẩn ở lại không về). Chúng tôi nuôi bò để lấy phân bò làm vưòn, thế thôi. Đất miền Dương Xuân Thượng có rất nhiều sỏi đá nếu không có phân thì cây lên không tốt. Chúng tôi ủ những đống phân lớn để dành trồng sắn (củ mì) và khoai lang.

Thường thường anh nào vào chùa thì cũng phải trải qua thời hạn chăn bò, ít nhất là sáu tháng. Dầu anh là thứ bạch diện thư sinh yếu ốm, anh cũng phải chịu kỷ luật đó. Buổi sáng sau thời công phu, trong khi mọi người lo chấp tác các công việc chùa như quét tước, dọn dẹp, trồng trọt thì anh mở chuồng và lùa bò ra núi, chọn chỗ nào có nhiều cỏ. Tôi vào chùa được ba tháng thì được đi giữ bò. Nói được không phải là quá đáng đâu, vì tương đối đi giữ bò nhàn nhất và có thì giờ để học bài nhiều nhất. Này nhé, tôi lùa bò ra núi, vai mang hai cái bội (một thứ giỏ lớn) xóc trong một thứ đòn gánh nhọn, và tay cầm một cái liềm. Cuốn luật “Tỳ Ni Nhật Dụng Thiết Yếu” được bỏ vào trong chiếc bội. Ra đến chỗ có nhiều cỏ, tôi để cho bò thong thả ăn cất cuốn Tỳ Ni dưới một gốc thông và lấy một viên đá đè lên cho gió khỏi bay. Thế rồi tôi xách bội và liềm đi bứt bổi. Bứt bổi nghĩa là cắt bằng liềm tất cả các đọt lá tươi trên các bụi cây, lá gì cũng được, và nhận cho thật chặt trong bội. Thứ lá cây này sẽ thay cho rơm rạ của đồng quê, bởi vì trên núi chúng tôi làm gì có rơm. Thứ lá bổi này sẽ trải ra trong chuồng để cho bò nằm, một ngày hai lần. Trộn với phân bò, ẩm và mục đi, bổi trở thành một thứ phân bón cây rất tốt. Cứ dăm mười hôm chúng tôi lại lấy phân bổi trong chuồng đến đổ ở một địa điểm mà chúng tôi gọi là nhà ủ phân. Ngày lấy phân, bốn năm điệu thường chỉ mặc quần cụt bởi vì mặc đủ áo thì “mất vệ sinh” lắm. Xong rồi thì tất cả đưa nhau ra giếng tha hồ tắm.

Khi đã bứt và nhận đầy hai cái giỏ (phải đầy cho có ngọn đấy nhé) tôi mới nghỉ tay và chọn một gốc cây có bóng mát để ngồi. Thường thường phải đi nhiều nơi mới bứt được đầy hai giỏ bổi lớn, và như thế vào khoảng mười giờ rưỡi mới xong. Tôi ngồi nghỉ và đem sách ra học. Cuốn Tỳ Ni viết bằng chữ Hán (chúng tôi không được học kinh gì bằng chữ Việt hết, bởi lẽ những thứ kinh cần học hồi đó thì đều không có bản dịch).

Cuốn Tỳ Ni là cuốn phải học thuộc lòng cũng như rất nhiều cuốn khác. Cũng như cuốn Sa di luật nghi hay là cuốn Quy sơn cảnh sách. Muốn thọ giới sa di, ít nhất anh phải học thuộc hai buổi công phu, và bốn cuốn luật, gọi là luật tiểu, trong đó có ba cuốn tôi vừa nhắc ở trên, và thêm cuốn Uy nghi. Khi nào anh đọc thuộc lòng và trả lời thông suốt những câu hỏi của thầy về bốn cuốn ấy anh mới hy vọng được thọ giới sa di và được gọi bằng chú. Nếu không thì lớn thế mấy, giỏi thế mấy, anh cũng còn bị gọi là điệu. Điệu chỉ mới là tập sự vòng ngoài mà thôi.

Những hôm trời mưa đi bứt bổi và giữ bò thật là khổ. Trời có khi rét căm căm. Tôi mặc thêm chiếc áo len, và mang tơi cá (đố các cậu bé thành phố biết tơi cá là gì?) ra núi. Cuốn Tỳ Ni phải giữ kín trong tơi, nếu không thì sẽ bị thấm nước bở ra hết. Học thuộc bốn cuốn luật tiểu thật là khó khăn, nếu anh làm biếng thì khó lòng lắm. Có điệu học trước quên sau, học sau quên trước. Tôi có biết một điệu học chú Lăng Nghiêm suốt một năm mà không thuộc; mà chú Lăng Nghiêm khó thật, đã bằng tiếng Phạn mà lại dài bằng sáu bảy lần chú Đại Bi. Thảo nào có câu tục ngữ: “đi lính thì sợ cửa ải, ở sãi thì sợ Lăng Nghiêm”. Thực ra thì tôi không sợ Lăng Nghiêm, vì tuy bận tôi cũng học thuộc nó trong mười lăm ngày. Chú Mãn phục lăn; chú học không có phương pháp nên tốn hơn một tháng.

Có hôm trời mưa nhột lưng con bò mẹ tự nhiên bỏ chạy và mấy con bò con chạy theo. Tôi cũng phải ... chạy theo, vì sợ mất bò. Thế rồi không biết con bò giở chứng làm sao ấy, không chịu về và chạy mãi về tận An Cựu. Mấy con bò con lạc tứ tán. Bữa ấy tôi bị một phen rách chân. Mới đi chăn bò hơn một tháng, làm gì biết được những cái tật kỳ lạ đó của bò mà đối phó? Tôi mệt nhoài, bỏ về thì sợ mất bò mà theo đuổi thì biết theo đuổi tới đâu mới bắt được chúng lùa về chuồng? Tôi đành phải thuê hai người nông dân đón đầu và dùng áp lực của roi vọt mới lùa được con bò mẹ về. May sao khi về tới đồi Nam Giao thì mấy con bò con còn quanh quẩn ở đấy. Rồi ba con bò con nhập đoàn cùng về, chiều hôm ấy tôi nhốt luôn mấy con bò trong chuồng không cho đi ăn cỏ.

Chính trong thời kỳ chan bò mà tôi học thuộc được bốn cuốn luật tiểu, cuốn chót tức là cuốn Quy sơn Cảnh sách, tôi học rất mau bởi vì văn hay và viết theo thể biền ngẫu. Chú mãn cũng cùng học luật tiểu với tôi và chúng tôi thường dò bài với nhau, thường thường vào giờ trưa, sau giờ thọ trai. Trong thời đi chăn bò, tôi thường về chậm và ăn cơm một lần với chú Mãn. Thường thường khi thầy hương đăng cúng ngọ, tiếng chuông và tiếng mõ cùng vọng ra ngoài núi với nghi thức cúng dường. Lúc đó là lúc tôi đang học cuốn Tỳ Ni. Tôi bỏ cuốn sách xuống, lắng tai nghe tiếng chuông trong trẻo trong gió và tiếng mõ trầm trầm ấm áp. Rồi khi nghe ba tiếng mộc bản vang động rừng núi, tôi sửa soạn đưa bò về. Ba tiếng bản ấy báo giờ thọ trai. Tôi gánh bổi lùa bò về, và giải bổi trong chuồng trước khi đóng cửa chuồng lại. Rồi tôi xuống giếng tắm. Tắm xong lên nhà ngoài thì đại chúng đã thọ trai xong, ai nấy đều vào phòng nghỉ trưa. Phần cơm của tôi và của chú Mãn (chú Mãn làm thị giả hầu thầy nên ăn sau) còn để trên bàn quả đường, phía trong (phía ngoài là chỗ ngồi của các thầy lớn). Một phần gồm có một in cơm và hai thức ăn, trong đó một món rau luộc chấm tương, còn món kia là một món xào, kho hay là canh. In cơm khá chặt, gồm có hai chén cơm thật đầy úp lại với nhau thật chặt. Kể ra thì vào khoảng bốn chén lưng. Thường thường chúng tôi ăn rất ngon lành. Tôi ăn no, một phần vì đói, một phần là vì hai con mắt sáng và câu chuyện có duyên của chú Mãn.

Có những buổi chiều trời mát, sau khi chấp tác xong, chú Mãn tìm ra núi “chơi” với tôi. Thật là những giờ vui nhất trong đời. Vui có lẽ vì làm như thế là hơi bất hợp pháp đấy. Chú mang ra cho toi một ít củ khoai nướng và hai anh em ngồi trên đồi vừa trông chừng mấy con bò, vừa bóc khoai ăn ngon lành. Những củ khoai nướng chín có những cái vỏ vàng thơm và ngon. Ăn xong thì khát quá. Nước suối uống không được bảo đảm, chúng tôi phải cho bò về sớm hơn thường lệ rồi vào nhà bếp tìm tới nồi nước chè. Dì Tư hỏi: “Làm gì mà các Điệu uống nước nhiều vậy?”

Như tôi đã nói, công việc giữ bò tuy thế mà nhàn nhã hơn nhiều công việc khác. Hồi mới đến, tôi phải tập gánh nước. Gánh nước từ giếng lên nhà bếp, không xa lắm, chỉ vào khoảng bốn trăm thước. Tôi tập gánh nửa thùng và vài ba ngày sau tôi gánh được đầy thùng. Hai cái vai học trò đỏ ra và sưng lên. Đau đến nỗi thà rằng gánh hai thùng nước đầy mà còn ít đau hơn là gánh hai thùng không. Mãi đến mấy tuần sau mới chai đi; còn giã gạo nữa. Giã gạo bằng chày vồ, bốn năm người. Cái chày đối với chú Mãn và tôi thì “hơi” nặng. Thế mà cứ phải nhấc lên dáng xuống thật đều, thật đúng lúc. Có khi dáng xuống không chỉnh, gạo văng tung tóe. Hoặc cái chày nằm nghiêng. Phải rút ngay ra kẻo người đứng bên dáng chày của người ấy xuống. Giã gạo được chừng năm sáu chục chày thì mệt đừ người, mồ hôi mồ kê đầm đìa. Rõ thật là tệ.

Lại còn bao nhiêu việc khác mà ai cũng phải làm. Như là xay lúa, gánh đất trồng khoai và củ mì. Chùa chúng tôi là một tu viện về Thiền Tông cho nên tất cả chúng tôi từ trên xuống dưới đều tuân theo nguyên tắc “bất tác bất thực”. Chúng tôi ai cũng biết câu chuyện của tổ Bách Trượng. Ngài chấp tác với toàn thể đại chúng, làm việc trong vườn, trồng rau, tỉa đâu, ngày nào cũng thế, dù cho Ngài đã 80 tuổi. Tăng chúng trong Viện thấy thế lấy làm ái ngại, tuy muốn cho Ngài nghỉ nhưng biết rằng bạch ngài thế nào Ngài cũng chẳng nghe. Một hôm các chú đem giấu cuốc xẻng của Ngài đi.

Mất cuốc xẻng. Ngài không ra vườn làm việc được; nhưng hôm ấy Ngài không ăn cơm. Cả ngày mai tới và ngày mốt tới. Ngài cũng không chịu ăn. Các chú nói: “Có lẽ Ngài bực mình vì chúng ta giấu cuốc xẻng của Ngài”. Rồi đem trả cuốc xẻng lại. Hòa thượng ra vườn làm việc ngày hôm ấy và buổi trưa thọ trai. Chiều đó Ngài dạy đại chúng: “bất tác bất thực”.

Chùa chúng tôi đông và đại chúng sống về vườn tược và ruộng nương. Ruộng thì ở xa chùa nên chúng tôi phải giao cho người ta làm và mỗi mùa đem phần lúa của chùa lên cho chùa; còn vườn tược thì chúng tôi tự cai quản lấy. Chúng tôi trồng rất nhiều thức để tự túc: từ cây chè, cây mít cho đến khoai sắn.

Nhưng chúng tôi không làm việc suốt ngày đâu. Chúng tôi có giờ để học kinh, tập viết chữ, nghe thầy giảng, tụng kinh và tham thiền; và tham thiền là quan trọng nhất. Thầy tôi dạy: tham thiền là cửa ngõ để đi vào trí tuệ, là sự nghiệp của người tu.

Tuy nhiên không phải vào chùa là được học tham thiền ngay đâu; còn phải bứt bổi giữ bò, còn phải gánh nước, giã gạo, kiếm củi tháng này sang năm khác. Mẹ tôi mỗi khi từ làng xa lên thăm, thường cho rằng đó là những thử thách của giai đoạn đầu tiên trên bước đường tu. Có lẽ mẹ ái ngại nhưng mà thấy tôi mạnh khỏe hơn lên mẹ cũng vui lòng. Tôi thì tôi biết rằng đó không phải là thử thách. Đó là chính sự tu hành vậy. Anh vào đi tu thử xem và anh sẽ thấy. Nếu không giữ bò, bứt bổi, gánh nước, trồng khoai thì anh có cách chi để học tham thiền.

Và chú Mãn cũng như tôi, cả hai sau này đều nghĩ đến thời gian làm “điệu” với một cảm mến sâu đậm.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/10/2010(Xem: 2995)
Hằng Nga trong cung trăng: Theo sách của Hoài Nam Tử, Hậu Nghệ xin thuốc trường sinh của bà Tây Vương Mẫu, Hằng Nga là vợ của Hậu Nghệ uống trộm...
27/10/2010(Xem: 20271)
Mục đích của chúng tôi trong khi sưu tập những mẫu chuyện kể này là để mọi người thưởng thức những tinh hoa hay đẹp của giáo – lý qua những câu chuyện tươi sáng đẹp đẽ. Nếu công việc sưu tập ca – dao là một việc khó thì công việc sưu tập và trình bày những mẩu chuyện cổ của đạo Phật cũng là một việc khó khăn và đòi hỏi sự hợp lực của nhiều người. Hàng chục ngàn mẫu chuyện đạo, nào thuộc loại tiền thân, nào thuộc loại lịch sử, nào thuộc loại thí dụ, nào thuộc loại triết lý. . . những câu chuyện đó thật là phong phú và chứa đựng những tinh hoa của giáo - lý, từ - bi và trí tuệ. . . Ðọc những mẫu chuyện đạo ấy, không ai thấy chán nản cả. Các em thiếu nhi thích đã đành, người lớn chúng ta cũng vẫn thích và hơn thế nữa, lắm lúc cũng phải suy nghĩ nhiều để có thể hiểu được triết – lý của một câu chuyện. Chúng tôi sức lực không bao lăm thành thử trông mong rất nhiều ở các vị học giả thâm uyên và dày công nghiên cứu. Chúng tôi chỉ muốn làm công việc nói lên những nguyện vọng, và tr
22/10/2010(Xem: 3863)
Tại biên giới của tỉnh Tây Khương sát với Tây Tạng, có một bà lão sống cô độc, chồng và đứa con trai duy nhất của bà đã qua đời. Bà sống nhờ một thửa đất nhỏ trồng những hạt ngũ cốc. Vì cuộc đời đã trải qua nhiều gian truân từ nhỏ, bà lão cảm thấy nghiệp chướng trong người rất nặng nên đã cố công tìm hỏi những người chung quanh phương pháp chuộc tội để cầu xin cho tâm hồn được bình yên.
21/10/2010(Xem: 8389)
Bị xổng một lần trong khóa tu học kỳ 6 tại Bỉ, vì chọn ngày hè trật đường rầy (hãng tôi làm việc phải chọn hè từ đầu tháng 2); năm sau, tôi quyết tâm canh ngày giờ cho đúng để tham dự cho bằng được khóa tu học kỳ 7 tại Đan Mạch, do Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu tổ chức.
19/10/2010(Xem: 7956)
Khi xe chúng tôi đến nơi, đồng hồ chỉ đúng 12 giờ khuya. Phòng ốc dành cho 300 giường đã không còn chỗ trống. Ban Tổ Chức đành trưng dụng phòng họp, phòng học - một cho phái nữ, một cho phái nam - với các tấm nệm lót dưới đất cho chúng tôi ngủ tạm. Giải quyết một lúc cho phái đoàn Thụy Sĩ 30 người - chưa kể các nước khác - đâu phải dễ. Vả lại đi chùa thì phải chấp nhận "ăn chay nằm đất". Nằm "đất" còn phải chịu, lựa là nằm "nệm", nên chúng tôi vui vẻ nhận lời, không than van gì cả. Mà than van nỗi gì được khi đã hiểu giáo lý (dù chút chút) của đạo Phật. Mọi sự phải do "duyên" mà có. Và "duyên" này khởi từ "nhân" chiều nay.
17/10/2010(Xem: 9456)
Hơn 6 tiếng xe lửa từ Aschaffenburg, tôi trở về đến nhà gần 10 giới tối. Lục đục tắm rửa, ăn chén súp nóng (do chồng nấu cho) huyên thuyên kể chuyện, rồi đánh răng... mãi gần 12 giờ khuya tôi mới lên giường đi ngủ. Sáng sớm hôm sau 6 giờ thức dậy sửa soạn đi... cày. Công việc ứ đọng của 2 ngày thứ 5, thứ 6 (lấy hè, cộng với công việc của thứ 2 đầy ắp trên bàn. Tôi một mình chịu trách nhiệm một phòng không ai thay thế). Ông xếp trước khi về văn phòng còn đứng đó chờ đợi, vẻ lo âu. Tôi trấn an ông:
17/10/2010(Xem: 4733)
Tết Trung Thu ăn vào ngày rằm tháng 8. Nguyên cuối đời nhà Tây Hán (206 trước 23 sau D.L.), Vương Mãng nhân được cầm giữ chính quyền...
17/10/2010(Xem: 2919)
Một vị thương gia lập nghiệp từ tay trắng, sau kiếm được rất nhiều tiền nhưng vì buôn bán trong thời kinh tế không ổn định, khiến anh ta trở nên phá sản, nợ nần chồng chất. Nghĩ mãi không tìm ra cách giải quyết, anh ta bèn ra bờ sông tự tử. Vào lúc canh ba một đêm nọ, anh ta đến trước bờ sông, bỗng nhiên nhìn thấy một thiếu nữ đang ngồi khóc thảm thiết, anh bèn đến hỏi cô gái: - Có chuyện gì mà đêm hôm khuya khoắt cô ngồi khóc một mình ở đây?
16/10/2010(Xem: 4075)
Hàng ngàn năm trước tây lịch, khi thổ dân Dravidian còn ngự trị khắp lãnh thổ Ấn Độ cổ thời, vùng phía tây Hy Mã Lạp Sơn là lãnh địa của rắn. Vốn là vùng rừng núi bạc ngàn nằm trên nóc nhà thế giới, Hy Mã Lạp Sơn là nơi thâm u bí hiểm với sơn lam chướng khí trùng trùng và vô số loài thú dữ cư ngụ sẵn sàng lấy mạng người để làm thức ăn. Thời đó, thổ dân Dravidian không có đủ vũ khí hùng mạnh để chống cự với các loài mãnh thú và tự bảo vệ mình. Từng người vào rừng săn tìm thức ăn đã không thấy trở về. Độc địa nhất không phải chỉ là những hổ, cọp, gấu, beo nằm lồ lộ chờ mồi bên bờ suối, dưới gốc cây hay trong khe đá, mà ngay bên dưới lớp lá khô mục của đường rừng là những loài rắn nguy hiểm chực chờ bước chân người.
16/10/2010(Xem: 3739)
Trong thiền không có đầu đuôi, khúc chiết, lý luận. Nó đập vỡ lý luận. Đó là thế giới lý tưởng của câu thơ lớp ba mồ côi luận lý. Thế giới của những câu cuối lấc cấc, mẹ gà con vịt. Đừng bắt tôi giải thích; hãy lang thang với tôi trong câu cuối của dăm ba chuyện thiền nổi tiếng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]