Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

42. Chuyện Vua A-Dục

31/08/201113:33(Xem: 8297)
42. Chuyện Vua A-Dục

Đường Vào Nội Tâm
Thích Nữ Trí Hải

42. CHUYỆN VUA A-DỤC (ĐẦU GÌ QUÝ?)

(tặng thiếu nhi Tuệ uyển)

Hôm nay cô sẽ kể cho các em nghe câu chuyện vua A dục cảm hóa hoàng đệ và đình thần. Vua A dục là vị vua Ấn độ sống sau Phật Thích ca khoảng chừng ba trăm năm. Trước khi theo đạo Phật, vua rất hung ác, nhưng từ khi biết đạo, ông trở thành một vị vua nhân từ, tích cực hoằng dương chánh pháp. Vua cho dựng khắp xứ những trụ đá khắc lời Phật dạy để dân chúng noi theo tu học, từ bỏ sát sinh, trộm cắp, nói dối. Những trụ đá ấy đến nay các nhà khảo cổ vẫn còn tiếp tục khai quật được, bị chôn vùi dưới những lớp đất thật sâu tại Ấn độ: đó là chứng tích lịch sử hùng hồn nhất chứng minh sự thịnh hành của Phật giáo tại Ấn độ cách đây hơn hai ngàn năm.

Vua A dục thường lễ kính các vị tỳ kheo. Bất luận gặp các ngài ở đâu, vua cũng quỳ lạy sát đất. Mỗi khi vua cùng đi với triều thần, mà gặp một vị tỳ kheo, ngài liền xuống xe đảnh lễ. Triều thần thấy vua lạy buộc lòng phải lạy theo, nhưng thâm tâm thì không muốn. Có lần, họ đánh bạo tâu vua:

- Tâu bệ hạ, bệ hạ là chủ cả nước, sao bệ hạ lại cúi đầu trước mấy thầy tu chỉ là thần dân của mình?

Để cho các quan một bài học, một hôm vua ra lệnh họ đi tìm tất cả những cái đầu của đủ các loài, từ nhỏ đến lớn, đem về chất đầy một nhà kho. Nào đầu heo, đầu bò, đầu ngựa, đầu khỉ, cho đến đầu cá đầu tôm... Cuối cùng vua bảo đem về một cái đầu người, chặt từ những thây chết ngoài rừng thây. Sau khi sưu tập đủ loại đầu, vua bảo họ đem bán. Đầu con gì cũng có ít nhiều giá trị, nhưng khi đem bán cái đầu người, thì thiên hạ đều ghê sợ, không ai mua, đành phải đem về tâu vua. Vua bảo: "Vậy, các khanh hãy đem cho không." Họ nói: "Tâu bệ hạ, dù cho không, cũng chẳng ai lấy làm gì cả."

Nhân đấy vua triệu tập các quan, dạy:

- Các ngươi cho đầu người ta quý, không nên dùng để lễ bái, nhưng qua kinh nghiệm vừa rồi, ngươi thấy nó có quý bằng đầu tôm, đầu cá chăng? Tại sao đầu con gì dù nhỏ nhất cũng có chút ít giá trị, chỉ có đầu người cho không cũng không ai thèm? Như vậy đủ biết, cái đầu người ta không quý gì cả, còn thua cái đầu thú vật, nhưng sở dĩ nó quý là nhờ những tư tưởng chỉ đạo cho hành vi tốt phát xuất từ cái đầu ấy. Nay ta kính lễ các bậc chân tu là để thực hành hạnh cung kính Tam bảo, hành vi ấy xuất phát từ tư tưởng tốt đẹp, các ngươi không nên kích bác ta.

Các quan từ đấy không còn chê vua là hạ mình một các vô lý. Đối với hoàng đệ, vua cũng cho một bài học thâm trầm. Ngài có người em trai kế cận thường chê vua mê tín, cứ đem lễ vật cống hiến cho bọn thầy tu ăn không ngồi rồi. Hoàng đệ nói:

- Thưa vương huynh, theo em thấy, những lão thầy tu kia cũng như mình, biết ăn ngon mặc đẹp, hưởng thụ các giác quan như mình, có gì hơn chúng ta mà vương huynh quá kính trọng như thế?

Để trả lời em, một lần nọ vua tổ chức một cuộc du ngoạn tắm biển, mời hoàng đệ và hai ái phi cùng đi. Ra tới bãi biển, vua cởi bỏ long bào vương miện giao cho một cung phi giữ, cô kia cùng bơi với vua và hoàng đệ ra xa. Vua bơi trước, cung phi nửa chừng giả bộ đuối sức, kéo hoàng đệ cùng quay vào bờ. Hoàng đệ bơi theo, cả hai cùng lên đến chỗ cung phi đang giữ áo mão. Cô này nói:

- Thưa hoàng đệ, sẵn có áo mão nhà vua đây, hoàng đệ mặc vào cho chúng em ngắm thử, chắc đẹp lắm.

- Ta đâu dám.

- Không sao đâu, nhà vua đã bơi ra xa, hoàng đệ thử mặc một lát chơi thôi mà. Hãy cho chúng em ngắm trước vị vua tương lai trẻ đẹp. Phần áo mão này có ngày hoàng đệ cũng sẽ mặc thôi, bây giờ ướm thử thì đã sao!

Nghe bùi tai, hoàng đệ đỡ lấy long bào trên tay cung nữ. Vừa khoác áo đội mão lên, đang cùng với hai cung phi ngắm nghía, bỗng đức vua đã vào tới bờ. Ngài giận dữ tiến lại:

- A, hoàng đệ có âm mưu gì mà dám mục long bào của trẫm? Lại dám đùa giỡn với hai ái phi ta? Tội khi quân đáng chém đầu. Hãy đưa về triều xử trảm.

Vua thét thị vệ trói cả ba dẫn về, thiết triều để nghị án. Các quan đều đồng ý rằng theo luật phải tử hình, nhưng vì em vua nên xin giảm nhẹ. Vua phán:

- Thôi thì vì tình ruột thịt, ta tạm hoãn cho bảy ngày. Và vì ngươi muốn làm vua, cho nên ta sẽ cho mặc áo long bào, vươn miện và ngồi trên ngai vàng bảy ngày liên tiếp trước khi ra pháp trường chịu tội. Ta sẽ cho ngươi hưởng thụ tất cả dục lạc của đế vương trong thời gian đó, cho ngươi thỏa nguyện.

Rồi vua sai những quan thị vệ, đầu bếp, hầu tắm, bồi bàn, cung phi mỹ nữ...hầu hạ hoàng đệ y như hầu hạ nhà vua thường ngày. Lại cho ngồi trên ngai, nằm long sàng, xử dụng chén vàng đĩa b?c của vua. Mỗi ngày khi mặt trời lặn, một quan thị vệ lại quỳ tâu: "Tâu bệ hạ, một ngày đã qua, chỉ còn không mấy ngày nữa là nhà vua sẽ ra pháp trường chịu tội."

Cứ thế cho đến hết ngày thứ sáu, quan thị vệ lễ phép quỳ tâu:

- Tâu bệ hạ, chỉ còn một ngày nữa thôi, bệ hạ sẽ từ bỏ ngai vàng để lãnh án tử hình.

Đêm ấy vua A Dục vào thăm hoàng đệ.

- Sao? Em thấy thế nào trong sáu ngày vừa qua, khi hưởng dục lạc của vương vị?

Hoàng đệ khóc òa:

- Ôi vương huynh ơi! Chẳng thà vương huynh đưa em ra pháp trường mà chém quách đi, còn đỡ khổ hơn giết lần giết mòn em với cái trò làm vua quái ác này! Nó làm cho em bạc cả đầu, sâu cả mắt, ăn không ngon ngủ không yên, khi thấy mình tiến từ từ đến cái chết!

- Như vậy em không sung sướng gì khi hưởng thụ dục lạc vì nghĩ đến cái chết phải không? Các vị tỳ kheo đệ tử Phật cũng thế đó, các ngài luôn sống trong pháp quán tưởng vô thường, thì làm sao có thể sung sướng khi được chúng ta tôn trọng, cung kính cúng dường lễ bái? Càng được cung kính cúng dường, những vị chân tu càng sợ hãi như bị đeo thêm đá vào người, cảm thấy trách nhiệm mình càng lớn, mà cái chết gần kề, làm sao yên ổn được? Em vừa mới sống sáu ngày qua trong tâm trạng căng thẳng tột độ, chắc em đã hiểu tại sao ta đảnh lễ, cúng dường các vị tỳ kheo?

Hoàng đệ ôm chầm chân vua nức nở:

- Thì ra đây là bài học vương huynh muốn dạy em!

- Chính thế.

- Và Vương huynh tha chết cho em?

- Dĩ nhiên.

- Đa tạ ơn vương huynh! Em xin ghi nhớ suốt đời bài học này!

Hoàng đệ rối rít cảm ơn vua, và từ đấy theo vua học đạo, tập tành cái hạnh cung kính những bậc đạo đức hơn mình.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/10/2010(Xem: 3842)
Trong đời, tôi đã thấy mặt trăng lần nào chưa? Nhìn trăng, tôi nhìn cả đời. Nhưng thấy trăng, tôi không dám nói chắc. Khi tôi nhìn trăng trước mắt, tôi nghĩ đến trăng nửa khuya loáng thoáng trên tàu lá chuối sau vườn cũ. Tôi nghĩ đến đèn trung thu lúc nhỏ. Tôi nghĩ đến cái chõng tre giữa sân trên đó, ngày xưa, tôi nằm nhìn mây bay. Nhìn trăng, tôi không thấy trăng. Chỉ thấy lá chuối, chõng tre. Thấy cả tôi với trẻ con hàng xóm nô đùa. Có lần tôi trốn tìm với chúng nó, bị lộ, tôi nhảy bừa vào bụi tre, bất ngờ có đứa con gái đã ngồi sẵn trong đó. Tôi sợ hoảng, toan vọt ra thì nó kéo tay tôi lại, ấn vai tôi xuống, cười đồng lõa. Trong loáng thoáng của cây lá, tôi thấy hai cái răng cửa của nó sáng ngời ánh trăng. Bây giờ, nhìn trăng non, tôi thấy cái miệng và hai cái răng. Tựa như hai cái răng của nó phát ánh sáng và in hình miệng nó lên bầu trời.
16/10/2010(Xem: 3120)
Ngày xưa, một nhà quan lang họ Cao có hai người con trai hơn nhau một tuổi và giống nhau như in, đến nỗi người ngoài không phân biệt được ai là anh, ai là em
16/10/2010(Xem: 2939)
Ngày xưa, vào hồi Tây Sơn khởi nghĩa, có một chàng trai người vùng Đồng Nai, có tài cả văn lẫn võ, đã vung gươm hưởng ứng sự bất bình của thiên hạ.
16/10/2010(Xem: 2774)
Ngày xửa... Ngày xưa... Có một cô bé rất giàu lòng yêu thương. Cô yêu bố mẹ mình, chị mình đã đành, cô còn yêu cả bà con quanh xóm...
15/10/2010(Xem: 3210)
Một danh tướng về già muốn tặng thanh kiếm báu của mình cho một tướng quân ở xa. Ông giao trọng trách đó cho một gia nhân, cũng là một tay kiếm xuất chúng. Cẩn thận như vậy, ông vẫn không yên lòng, nghĩ rằng kiếm sĩ này chưa chắc đã đủ chín chắn để giữ kiếm không bị cướp dọc đường. Thanh kiếm không những quý về chất thép mà còn quý vì chuôi kiếm có nạm vàng và ngọc vua ban.
13/10/2010(Xem: 2610)
Có hai vợ chồng một ông già tên là Dã Tràng. Trong vườn họ có một hang rắn. Thường ngày làm cỏ gần đấy, ông già vẫn thấy có một cặp vợ chồng rắn...
13/10/2010(Xem: 4166)
Vào Thứ Sáu, ngày 8 tháng 10 năm 2010, Ủy Ban Giải Nobel Hòa Bình Na Uy đã công bố giải Nobel Hòa Bình năm 2010 được trao cho Lưu Hiểu Ba. Lưu Hiểu Ba, sinh năm 1955 tại thủ phủ Trường Xuân của tỉnh Cát Lâm ở đông bắc Trung Quốc, là nhà tranh đấu bất bạo động cho tự do, dân chủ và nhân quyền tại Trung Quốc. Ông đã từng tham gia phong trào sinh viên đấu tranh trong biến cố Thiên An Môn năm 1989 và sau đó liên tục bị sách nhiễu, quản chế tại gia và tù tội. Ngày 8 tháng 12 năm 2008, ông đã bị bắt vì cùng một số nhà tranh đấu dân chủ và nhân quyền Trung Quốc công bố Hiến Chương 2008 đòi xóa bỏ chế độ cai trị độc đảng để tiến tới một xã hội dân chủ cho Trung Quốc. Hiến Chương 2008 cho đến nay đã có hơn 8,500 người tham gia ký tên. Vì Hiến Chương 2008, Lưu Hiểu Ba đã bị chính quyền cộng sản Trung Quốc kết án 11 năm tù. Hiện ông vẫn còn ngồi tù ở Liễu Ninh, Trung Quốc.
11/10/2010(Xem: 3190)
Không ngờ tôi lại có được duyên lành đi chung với Thầy Trụ Trì Chùa Tâm Giác một đoạn đường khá xa. Tôi vẫn thường hay đến chùa, vãn hay gặp Thầy nhưng lúc nào Thầy cũng „Phật sự đa đoan“ nên tôi có rất ít thì giờ gần gũi và tiếp xúc với Thầy nhiều. Chuyến đi này thật hữu ích cho tôi vô cùng, tôi đã nghe và thấm nhuần được rất nhiều điều về Giáo lý Phật Đà - một niềm tin mà tôi luôn luôn tôn thờ và say mê khi vừa mới lớn cho đến tận bây giờ và cũng nhờ Thầy mà đoạn đường đi về 260 km không còn xa vời vợi nữa.
07/10/2010(Xem: 3322)
Hiện nay, truyền thuyết Lương Sơn Bá-Chúc Anh Đài được lưu truyền dưới nhiều hình thức nghệ thuật khác như kể chuyện, ca dao, truyền kỳ, kịch, khúc nghệ, âm nhạc, v.v
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]