Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

13. Phật Ðộ Nàng Gánh Nước

31/08/201113:33(Xem: 9280)
13. Phật Ðộ Nàng Gánh Nước

Đường Vào Nội Tâm
Thích Nữ Trí Hải

13. PHẬT ĐỘ NÀNG GÁNH NƯỚC

(thuật theo Hòa thượng Trí Nghiêm kể)

Một buổi sáng, tôn giả Anan một mình trên đường về tinh xá Kỳ viên, gặp một cô gái đang gánh đôi thùng đầy nước. Đang lúc khát, tôn giả tiến lại xin:

- Này chị, cho bần tăng ít nước uống.

Cô gái đặt thùng nước xuống, đỡ lấy bình bát của tôn giả, múc đầy nước cúng dường. Khi đến gần, cô bỗng chú ý vẻ đẹp siêu phàm của tôn giả, và liền bị một tiếng sét ái tình giáng xuống. Tôn giả đã đi xa, mà cô gái vẫn còn đứng đó, theo dõi bóng người cho đến khi ngài khuất dạng về hướng Kỳ viên. "Anan, Anan..." cô lẩm bẩm để ghi nhớ cái tên mà cô hỏi vội sau khi trao bát nước. Về nhà, cô bảo mẹ:

- Thưa mẹ, khi nào mẹ gả chồng cho con, thì mẹ gả con cho ông Anan mẹ nhé. Con chỉ muốn có ông Anan mà thôi, ngoài ra con không ưng ông nào hết.

- Anan là ông nào? (bà mẹ ngạc nhiên)

- Cái ông khoác áo vàng đó!

- Hừ, con cái lẩn thẩn chưa. Biết bao nhiêu là đàn ông mặc áo vàng, ta biết ông nào với ông nào.

- Con chỉ muốn ông Anan! Con chỉ yêu ông Anan! Mẹ đi tìm ông Anan cho con, không thì con chết! Hu hu hu.

Cô gái bỏ ăn, rầu rĩ suốt mấy ngày liền vì bệnh tương tư. Bà mẹ quá yêu cô con một, bèn qua nhà hàng xóm hỏi dò.

- Này, bà con cô bác có ai biết ông Anan áo vàng là ông nào không?

Có người đã từng cúng dường tôn giả, đáp:

- Biết. Tôn giả Anan là đệ tử và là em của Phật, đẹp trai lắm.

- Vậy à? Thế ông ta ở đâu?

- Ở chùa Kỳ viên ấy.

Bà mẹ lần dò đến chùa Kỳ viên, và hỏi thăm lần ra manh mối. Trở về, bà bảo con gái:

- Mẹ đã tìm ra ông ấy rồi. Con rán dậy mà ăn uống đi, mẹ sẽ tìm cách mời ổng về cúng dường một bữa. Rồi mẹ sẽ tính cho con. Thế nào chắc ổng cũng bằng lòng, vì con gái mẹ xinh đẹp Thế kia. Vả lại, mẹ còn kế này nữa. (bà kề tai nói nhỏ)

Cô vui vẻ trở dậy ăn uống. Bà mẹ đến tinh xá Kỳ viên, mời tôn giả A nan về nhà thọ thực. Đến ngày thọ trai, tôn giả đắp y ôm bát tới nhà hai mẹ con. Sau khi thọ trai, bà mở lời:

- Thưa sa môn, tôi có đứa con gái muốn gả cho một mình sa môn thôi. Nó không ưng ai ngoài ông ra hết. Vậy, xin ông hãy hoàn tục cưới con tôi. Tôi cho không, khỏi tốn đồng xu nào hết.

Tôn giả A nan sững sờ, lúng túng. Kẹt là lỡ ăn tại nhà người ta... Đang tiến thối lưỡng nan, bỗng cô gái đi ra khóa trái cửa lại, xách chìa khóa trở vào. Bà mẹ thì bưng ra một lò lửa đặt ngay giữa nhà, than hồng hừng hực. Tôn giả lấm lét nhìn lò lửa, rồi nói:

- Chúng tôi là sa môn đệ tử đức Phật. Thầy tôi dạy, người xuất gia phải giữ gìn giới cấm, không được làm việc dâm dục.

Bà mẹ trở giọng đanh thép:

- Tùy ý sa môn. Một đàng là có vợ đẹp, một đàng là lò lửa đó, muốn đàng nào?

Thấy nguy, tôn giả thầm kêu cứu Phật: "Lạy đức Thế tôn, con đang gặp nạn, Ngài nỡ bỏ con sao?"

Từ hương thất, động lòng từ, đức Thế tôn sai hai đệ tử đem thần chú Lăng nghiêm đến giải vây cho tôn giả. Nguyên vì Anan bị bùa lực của bà Ma đăng già, mẹ cô gái, nên không ra khỏi nhà bà được. Khi hai vị đệ tử Phật đi đến với thần chú Lăng nghiêm, bùa lực Ca tì ca la của bà ấy mất công hiệu. Anan thong thả ra về.

Cô gái mất Anan, lăn khóc thảm thiết. Cô chạy theo đến chùa Kỳ viên, tìm Phật để đòi lại Anan cho bằng được. Đức Phật hỏi:

- Ngươi muốn đòi Anan làm gì?

- Tôi muốn ông ấy về làm chồng.

- Cũng được. Nhưng hình thức ngươi khác, ông ấy khác, làm sao được? Ngươi phải giống như Anan, cạo trọc đầu, thì ta mới giao Anan cho ngươi.

- Được, vậy tôi sẽ ra phố cạo tóc.

Thấy cô gái quá si, đức Phật lại dùng kế hoãn binh:

- Khoan đã, ngươi phải về xin mẹ có bằng lòng cho ngươi cạo không đã chứ. Ta không chấp nhận ngươi cạo tóc, nếu không có mẹ đồng ý.

Cô gái trở về xin mẹ. Bà nổi trận lôi đình:

- Con cái gì ngu ngốc! Cái tóc là vóc con người, mày cạo trụi lũi cái đầu đi thì còn nước nôi gì nữa? Hử? Thiếu gì chồng, mà mày lại nhất quyết đòi cho được cái lão sa môn trọc đầu khó tính ấy, hở đồ ngu? Ta nhất quyết không cho mày cạo tóc.

Thế là hai mẹ con thi nhau bỏ ăn, nằm vạ. Cô gái không ngớt khóc lóc. Bà mẹ luôn mồm nguyền rủa.

Bà con lối xóm bu đông, kẻ bàn ra, người nói vào, để khuyên lơn bà mẹ.

- Này chị Ba, chi bằng chị cứ cho cô ấy cạo tóc đi, để được chồng. Nghe nói ông Anan là con vua, thế nào mai mốt cũng lên làm vua. Con chị sẽ được làm hoàng hậu, chẳng sung sướng lắm sao?

Bà mẹ nghe bùi tai, liền bằng lòng. Cô gái cạo trụi đầu tóc, trang điểm làm cô dâu để đến chùa Kỳ viên. Bao nhiêu kiềng xuyến hoa tai được đeo hết vào người cô, phấn son lòe loẹt đúng điệu cô dâu, chỉ khác một điều là cái đầu trọc lóc. Bà con bấm bụng cười thầm, tiễn đưa cô dâu đến tinh xá.

Đức Phật cũng ngạc nhiên không kém. Từ ngày thành đạo tới nay, Ngài chưa từng trông thấy cảnh tượng nào ngộ nghĩnh tức cười hơn. Tưởng là dùng kế hoãn binh, để bà mẹ ngăn cản cô ấy, nào ngờ bây giờ nó dẫn xác trở lại đòi Anan cho bằng được. Thật là một phen bối rối cho đức Thế tôn. Chỉ còn một cách là... thuyết pháp giáo hóa thử xem sao, chứ để nó bắt Anan đi thì còn gì! Ngài chúm chím mở lời:

- Này, con yêu Anan ở điểm nào?

Cô gái trả lời một mạch:

- Con yêu đôi mắt, cái mũi, cái miệng, tay chân thân hình giọng nói cử chỉ tướng đi của ông Anan.

Đức Phật nghĩ, "Con nhỏ này tuy si mê, mà khá thành thực. Có gì nói nấy. Hay lắm, tâm ngay thẳng là đạo tràng. Nó còn ngây thơ lắm, chưa biết gì đến cấu uế của sinh tử." Ngài dịu dàng bảo:

- Này con, tất cả những gì con yêu nơi Anan đều không sạch. Trong thân thể người ta, tất cả đều bất tịnh hôi thối. Ông Anan cũng như mọi người, như ta và như con. Thân con có sạch không?

Cô gái cúi mặt đứng im. Phật bồi thêm:

- Vả chăng, có chồng thì phải sanh con đẻ cái. Mà sanh con thì trần truồng, xấu xí. Con đường hiểm sanh tử ấy, chỉ có kẻ ngu mới dấn thân vào!

Nghe động tới sự trần truồng, cô gái cảm thấy hổ thẹn cực độ, tâm nhàm chán lên tuyệt đỉnh. Ngay tại chỗ, cô chứng quả Dự lưu, nghĩa là vào dòng thánh nhân.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/09/2013(Xem: 7856)
Khi bước xuống thuyền vượt biên ai cũng mang đầy hy vọng, mơ ước... Có kẻ mơ ước một tương lai xán lạn ở chân trời mới, có người chỉ mong những giấc mộng bình thường: Ngày hai bữa đủ no, tự do yên ổn...
11/09/2013(Xem: 4366)
Hân tra chìa khóa, mở cửa bước vào phòng làm việc. Căn phòng khá rộng. Diện tích gấp hai sân bóng rổ hầu hết chứa kệ vải. Ở một góc sát cửa sổ nhìn ra ngọn đồi cỏ là chỗ làm việc của Hân với Susan, chiếm 1/6 căn phòng, có một bàn dài, kế đó là những dãy kệ chứa nú
11/09/2013(Xem: 4848)
Hằng năm vào tháng mười, sinh nhật tôi, tôi có thông lệ, trước tiên là tự nhắc mình đóng tiền niêm liễm đến Văn Bút Âu Châu (tôi là hội viên mà), kế đó là cố nặn óc tìm một truyện ngắn về đề tài Sinh Nhật coi như món ăn tinh thần "đãi" quí vị độc giả.
10/09/2013(Xem: 6283)
Một lần nữa, chẳng quản đường xá xa xôi, thời gian, công sức, tôi tìm về tu viện Viên Đức Đức quốc không những gặp lại nhị vị Đại Đức Thích Hạnh Đức, Đại Đức Thích Hạnh Tuệ, tôi đã may mắn tiếp thụ tài thuyết giảng của hai Thầy; một người giảng thật nhẹ nhàng nhưng sâu, một người giảng lôi cuốn hấp dẫn trong khoá tu học do anh em Gia Đình Phật Tử Thụy Sĩ tổ chức vào dịp lễ Phục Sinh hằng năm vừa qua, mà còn hân hoan chào đón thêm 6 vị trong phái đoàn “Hoằng Pháp Âu Châu” do Hòa Thượng Phương Trượng Thích Như Điển tổ chức, một lực lượng hùng hậu chưa từng có từ trước đến nay. Nhìn trong danh sách giảng huấn của phái đoàn, tôi gọi đùa, toàn “Cao thủ võ lâm!” mặc dù không ai là võ sĩ cả mà là tu sĩ!
10/09/2013(Xem: 7756)
“Hậu sinh khả úy“ (kẻ sanh sau thật đáng nể sợ) là câu nói của ngài Khổng Tử, một triết gia Trung Hoa thốt ra khi ngài cùng học trò đi dạo thấy một em nhỏ vọc gạch cát xây thành giữa lối đi, ngài bảo: “Tránh chỗ cho xe ta qua“. Đứa nhỏ đứng dậy, đáp: “Xưa nay, xe tránh thành, chứ thành nào lại tránh xe“. Thấy đứa nhỏ đối đáp thông minh, Khổng Tử xuống xe cùng bé trò chuyện, đưa ra nhiều câu hỏi rất khó khăn, đứa bé đều trả lời thông suốt
09/09/2013(Xem: 5306)
Đối với những ai đã từng ghé Ấn Độ, nghe ngóng, tìm hiểu, quan sát, hẳn không xa lạ gì với thế giới của lực lượng Tăng Ni sinh viên Việt Nam đang du học tại đó. Nhưng với riêng tôi, cho mãi năm 2011 trong chuyến hành hương Tích Lan, tôi mới thực sự biết được bằng mắt thấy tai nghe thế giới lạ đó qua sự giới thiệu của Hòa Thượng Phương Trượng chùa Viên Giác về bốn sinh viên tu sĩ, học tăng từ Ấn Độ.
09/09/2013(Xem: 5360)
Nói đến, viết đến các khóa học Âu Châu, bao năm qua cây viết của tôi đã gần mòn, đã có nhiều bài viết về khóa học, viết đến độ không còn gì để viết. Nào ăn, nào ngủ, nào học, nào chơi... đủ cả. Khỏe cả bên trong, tốt lẫn cả bên ngoài. Thế thì lần này sẽ viết về gì đây?! Xin thưa, viết về “Thiên Đường Hạ Giới“ ạ.
06/09/2013(Xem: 4445)
Từ chùa Từ Đàm, tôi trở lại khóa học, nơi tổ chức khóa tu Âu Châu của mười ngày qua. Sân trường giờ vắng hoe. Thảm cỏ xanh dẫn ra con đường lớn, không còn một bóng người. Vài băng ghế nằm rải rác trên sân cỏ cũng đìu hiu như nhớ, như chờ ai. Bên trong trường học lưa thưa sót lại một số người đang dọn dẹp và một số đang đợi chuyến bay cho ngày hôm sau khi khóa học bế giảng. Hằng ngàn người, mới đó mà...biến mất. Biến như một cơn gió thoảng qua.
06/09/2013(Xem: 8935)
Lý số, đông y là nghề của bố chồng tôi. Không rõ nhờ cụ thực tài hay tại hành nghề miễn phí, không nhận thù lao của khách nên khách của cụ khá đông. Một ngày, năm đó tôi vừa 23 tuổi, có một vị khách đặc biệt đến nhà giữa lúc bố tôi đi vắng. Vị khách tướng tá khác phàm, râu tóc bạc phơ, cốt cách như một tiên ông. Cụ mặc chiếc áo dài the, đầu đội khăn đóng như bố chồng tôi vậy, tay cụ cầm gậy trúc và tự xưng là bạn của bố tôi mặc dù xưa nay tôi chưa hề gặp cụ bao giờ. Tôi mời cụ vào nhà.
29/08/2013(Xem: 10267)
Năm 1983: chúng tôi cạn kiệt khi mua xong đất làm tự viện mà còn thêm nợ nữa. Mảnh đất thật trơ trọi, không nhà cửa, một túp liều cũng không, Suốt mấy tuần lễ đầu chúng tôi phải ngủ trên cánh cửa cũ mua rẻ trong bãi phế liệu. Chúng tôi kê bốn góc gạch làm giường (dĩ nhiên làm gì có nệm – chúng tôi tu ở rừng mà!).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]