Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

9. Ngộ

29/08/201112:48(Xem: 5450)
9. Ngộ

TÂM HƯƠNG TẢI ĐẠO
Tuyển tập truyện ngắn thắp lên tinh thần Đạo Giác Ngộ giữa chốn vô minh
Gió Đông xuất bản 2002
Linh Linh Ngọc

NGỘ

Lòng hiếu kỳ của dân địa phương về những tu sĩ người Á Đông đã được giải tỏa phần nào qua sự dọ hỏi những gia nhân nhà triệu phú Coleman. Dù vậy, câu chuyện vẫn mang nhiều phần hoang đường đối với họ.

Đại khái, họ được biết, hơn hai mươi năm trước, cậu Steven của giòng họ Coleman được gọi đi làm nghĩa vụ công dân ở chiến trường Việt Nam. Trước đó, không mấy ai trong gia đình cậu biết đến địa danh của xứ Á Châu đó nằm ở chỗ nào trên bản đồ thế giới.

Ngày tiễn cậu đi, bà mẹ khóc ngất như ngày tử biệt. Bà không bao giờ tưởng tượng được rằng có một ngày con trai bà phải rời xa gia đình để đến một nơi chốn xa xôi, nguy hiểm như vậy. Mà bà lo lắng, bi ai cũng phải, vì nơi cậu Steven đến qủa là nguy hiểm.

Cậu đồn trú trên miền cao nguyên, cách thủ đô miền Nam Việt Nam hơn ba trăm dặm. Đơn vị cậu có nhiệm vụ yểm trợ đơn vị bạn khi có giao tranh trong vùng họ trách nhiệm. Thường, những vụ đụng độ quanh vùng chỉ được coi như lẻ tẻ. Cậu thấy chiến tranh ngoài đời, đôi khi không khốc liệt bằng trên màn ảnh.

Cho đến mùa hè năm 1972, một tháng, trước khi cậu mãn hạn nhiệm vụ, cậu mới thực sự nếm mùi máu lửa. Cuộc đột kích bất thần của địch vào ngay bản doanh đơn vị bạn đã gây một số thiệt hại đáng kể. Kho đạn dự trữ phát nổ, kịp thời chặn phe địch định dùng chiến thuật biển người tràn vào chiếm đồn. Không dạt được mục tiêu chớp nhoáng, chúng vội rút chạy theo chân núi vì biết lực lượng tiếp viện sẽ tới.

Qủa vậy, đơn vị cậu chặn đường rút chạy của địch ngay bìa rừng. Và trận giao tranh ác liệt, gần như xáp lá cà, trong đêm tối, là kinh nghiệm xương máu không bao giờ cậu Steven có thể quên được. Cậu thấy bạn mình gục phía trước, thấy kẻ địch ngã phía sau, nghe bốn phía những tiếng hò hét man rợ cho tới khi cậu trúng đạn liên tiếp vào bả vai. Cậu có cảm tưởng cánh tay phải đã đứt lìa ra, trước khi cậu ngã lăn xuống một hố sâu, và ngất đi.

Khi cậu tỉnh lại, tiếng súng đã êm, khu rừng chìm trong màn đêm mịt mùng. Mùi thuốc súng vẫn còn khét lẹt quanh đây, chứng tỏ cậu ngất đi không lâu lắm. Cậu gượng lết dậy, ôm bả vai bị thương, đi miệt mài. Cậu hoàn toàn mất phương hướng, chỉ đi theo linh tính. Phe địch hẳn còn trà trộn quanh đây, nếu không ra khỏi rừng trước trời sáng, e rằng khó sống.

Vết thương rỉ máu, đau đớn, cậu vẫn gắng bước. Lúc tưởng đành kiệt lực thì cậu thoáng thấy một căn nhà nhỏ, mái ngói cong.

Không còn chọn lựa, cậu liều mạng bò tới, gõ cửa, rồi qụy ngay xuống bực thềm.

Người cứu sống cậu là vị sư trụ trì ngôi chùa nhỏ trong thôn làng hẻo lánh đó.

Nhìn tình cảnh, sư ông đã hiểu, bèn vội vã cùng hai đệ tử khiêng cậu Steven vào chùa, lo băng bó vết thương. Nhờ biết đôi chút tiếng Anh, sư ông đã trấn an cậu, khuyên nên nán lại chùa đôi ba ngày chờ tình hình lắng dịu. Sau đó, sư ông sai đệ tử tìm đơn vị cậu báo tin để họ lo phương tiện an toàn tới đón.

Mấy ngày ẩn náu trong chùa, cậu Steven đã được nghe tiếng chuông mõ và những lời tụng kinh trầm bổng. Tuy không hiểu nghĩa nhưng cậu cảm thấy tâm hồn như chắp cánh mỗi khi tiếng chuông ngân lên, tan dần vào không gian. Cậu cũng thấy lòng như mở rộng, thanh thản, bình an, khác hẳn với cảnh khốc liệt ngoài cánh rừng kia. Đây với đó không bao xa mà như hai thế giới hoàn toàn khác biệt. Một nơi đầy hận thù chết chóc, một nơi bàng bạc sự thanh thản, an nhiên. Trong một lúc xúc động, cậu đã tưởng, cậu có thể ở lại nơi này, cùng sư ông sớm chiều tụng kinh gõ mõ. 

Tất nhiên, đó chỉ là ý nghĩ nhất thời.

Khi được đơn vị đến đón, cậu hết lời cám ơn ân nhân và dốc hết tiền bạc có trong người để đền đáp. Nhưng sư ông từ chối và điềm đạm nhắc rằng, cậu đã ở đây mấy ngày, hẳn thấy người tu hành không cần tiền bạc.

Hơn hai mươi năm sau, vào lúc bất ngờ nhất, ông Steven gặp lại vị sư cứu mạng, trên đường phố quê hương mình.

Không tin lại có sự tương ngộ kỳ diệu này, nhưng ông Steven không thể lầm được. Qủa đúng là vị sư đã cứu mạng ông năm xưa, vì gương mặt đó, dáng dấp đó, ông không thể lầm lẫn được.

Vị sư gìa không chú ý đến gì xung quanh. Trong bộ áo cà-sa bạc mầu và bình bát trên tay, Người bước những bước chân trần thong dong, an lạc. Người đang hướng dẫn những sa-môn trẻ đi vào khu phố có người Á-Đông cư ngụ. Thỉnh thỏang họ dừng lại khi có người cung kính bỏ vào bình bát nải chuối, hộp bánh...Khi được cúng dường, họ chỉ khẽ cúi đầu tỏ ý cám ơn rồi lại tiếp tục chậm rãi bước. Hình như họ đi chỉ để mà đi, chứ không phải đi để mà tới. Qúa khứ đã qua, tương lai chưa đến, nên có lẽ, đối với họ, thời gian chỉ thực sự hiện hữu ở những bước chân hiện tại này.

Cố dằn nỗi bồi hồi, ông Steven chạy theo, lắp bắp:

-A Di Đà Phật ... A Di Đà Phật ...

Ông Steven đã học thuộc được câu này trong những ngày ẩn trú tại chùa, hơn hai mươi năm trước. Để nhớ ơn người cứu mạng, ông tự nguyện niệm danh hiệu đó trước khi đi ngủ. Vì thế, dù bất ngờ, ông Steven đã thốt lên danh hiệu Phật A Di Đà dễ dàng như nói tiếng mẹ đẻ.

Giọng phát âm trọ trẹ câu niệm Phật đã khiến vị sư gìa thoáng bỡ ngỡ. Linh tính cho Người biết không phải chỉ là lời chào bình thường của Phật tử. Người dừng lại.

Những vị sa-môn trẻ đi sau cũng dừng theo.

Ông Steven nắm lấy tay ân nhân, lại nói:”A Di Đà Phật”, rồi hỏi luôn một hơi:

-Tôi là Steven đây ! Tôi đã được ông cứu sống hơn hai mươi năm trước ở Việt-Nam, ông có nhớ không ? Ông có nhớ không ???

Vị sư gìa nhìn người bạn cũ, mỉm cười an hòa ...

Bây giờ thì vị sư khó mà từ chối lòng đãi ngộ của người thọ ơn.

Ông Steven vẫn nhớ, người tu hành không cần tiền bạc. Bởi vậy, ông đâu có đền ơn bằng tiền bạc. Ông chỉ ra lệnh cho gia nhân dọn sạch căn nhà nhỏ ở cuối vườn trái cây thuộc gia trang rộng lớn của ông. Căn nhà cuối vườn đó thật yên tĩnh, biệt lập, thích hợp cho người tu hành hơn là dưới phố.

Nếu không vì lòng chân thành qúa đỗi, ông Steven cũng khó mà thuyết phục được ân nhân.

Từ khi vị sư gìa và các sa-môn tới trụ trì tại căn nhà cuối vườn, người ta thấy ông Steven cắp sách đến trường mỗi sáng.

Ông đi học tiếng Việt-Nam.

Ông cũng dành nhiều thì giờ trong thư viện để nghiên cứu về Đạo Phật. Càng tìm hiểu, ông càng thấy sự mầu nhiệm mênh mông về một tôn giáo mà trước đây ông không hề quan tâm đến. Sự mầu nhiệm mỗi ngày mỗi thôi thúc bởi tiếng chuông huyền diệu vọng lên từ tịnh thất cuối vườn, lúc mặt trời vừa ló dạng.
Khi ông Steven ngỏ ý muốn trở thành một sa-môn, vị sư gìa không tỏ vẻ ngạc nhiên gì. Người chỉ nói:

-Được, ông cứ xuống đây những giờ tu học, nhưng không cần thay đổi gì nhiều về đời sống cá nhân, cho đến khi ông thực sự hiểu đạo.

Ông Steven chuyên cần tu học, cố gắng hòa nhập với đời sống thanh thản, bình dị. Tuy chưa được thực tập khất thực nhưng ông Steven cũng hiểu rằng đi khất thực là một phần trong việc tu luyện, giữ lòng bình thản, nhẫn nhục giữa tha nhân. Ông Steven sẽ ngạc nhiên lắm nếu ông chứng kiến chút bất thường xẩy ra trong buổi xuống phố khất thực của tăng đoàn vào sáng thứ bẩy vừa qua.

Hình ảnh các nhà sư đi chân đất, tay ôm bình bát, mắt nhìn thẳng, bước nhừng bước chậm rãi, đã quen thuộc với dân chúng trong tỉnh. Nhất là khi họ biết câu chuyện về sự liên hệ giữa nhà sư và gia đình triệu phú Coleman thì họ đều có cảm tình với những người tu hành có lối tu ...kỳ cục như vậy.

Khi thấy tăng đoàn khất thực, không phải chỉ người Á Đông mới cúng dường thực phẩm mà đôi khi, người địa phương cũng hoan hỉ bỏ bánh kẹo vào bình bát.

Giữa nắng tháng hai, dưới phố nhộn nhịp, không phải chỉ có các nhà sư áo vàng mà còn có một đoàn thiếu nữ áo xanh, ôm thùng đi lạc quyên. Đó là những nữ sinh trường trung học Gío Đông. Họ đi lạc quyên để đóng góp vào buổi Đại Nhạc Hội cứu trợ trẻ tỵ nạn mồ côi trong các trại tỵ nạn Đông Nam Á, sẽ bị trả về Việt Nam.

Vị sa-môn trẻ nhất nghe các thiếu nữ áo xanh nói loáng thoáng như thế khi các cô gắn bông hồng nhỏ bằng lụa lên áo khách qua đường và đưa thùng lạc quyên lên, xin cứu trợ.

Lòng vị sa môn trẻ bỗng giao động mãnh liệt. Bước chân trần như dán chặt xuống mặt đường, và đôi mắt từ-lâu-không-nhìn-gì, giờ như bị các thiếu nữ áo xanh thôi miên.

Vị sa-môn trẻ nhất đã phạm giới !

Trên đường khất thực, các vị khất sĩ tuyệt đối không được nói lời nào, không được nhìn gì ngoài con đường thẳng trước mặt.

Các vị sa-môn đi sau bối rối trước điềm lạ đó của bạn. Một vị đánh liều, đi sát bạn, đẩy nhẹ cánh tay vào vị sa-môn trẻ, ra dấu bước tới, hy vọng cứu vãn kịp trước khi sư phụ phát giác ra điều bất ổn.

Ngay lúc đó, một trong những thiếu nữ áo xanh nhận ra đoàn tu sĩ quen thuộc trong tỉnh. Hẳn cô là người mộ đạo. Cô trao vội thùng lạc quyên cho bạn, chạy vào tiệm bách hoá ngay đó. Khi bước ra, cô cung kính đặt phong bánh vào bình bát của vị sa- môn trẻ nhất, miệng nói: “A Di Đà Phật”.

Như trong cơn mơ, vị sa-môn đáp lời: “A Di Đà Phật”.

Vị sa-môn trẻ nhất lại vừa phạm giới nữa !

Lần này thì tai hại qúa !. Sư phụ hẳn đã nghe thấy. Thay vì bước tới, Người điềm nhiên xoay người, đi ngược lại.

Sự kiện một nhà tu hành, nhìn trân trối đoàn thiếu nữ ngoài đường phố là một hình ảnh không nghiêm túc chút nào. Thay vì tiếp tục khất thực, Người phất tay ra dấu quay trở lại tịnh thất. 

Thật là qúa quắt lắm, chân tuy bước mà mắt vị sa-môn phạm giới như không rời đoàn thiếu nữ ...

Về tới tịnh thất, sư phụ bảo các môn đệ ngồi xếp bằng trước điện thờ. Người cũng ngồi như thế, đối diện với họ.

-Tâm Như, con giải thích cho thầy và các bạn rõ về sự phạm giới của con vừa rồi.

Sa-môn Tâm-Như cúi đầu, nét đau đớn hằn trên gương mặt trẻ.

-Tâm-Như, có nghe thầy hỏi không ?
-Thưa thầy ...thưa thầy ...
Các sa-môn khác nhìn nhau, lo lắng cho bạn.
-Tâm-Như, con nghĩ gì, cứ nói.
-Thưa thầy, con không .....tự chủ được.
Sư phụ cao giọng:
-Không tự chủ được ? Vì điều gì ?
-Thưa thầy, vì .....những thiếu nữ áo xanh !
-Vì nữ giới ?
-Thưa thầy, không phải !
-Con vừa nói.
-Vâng, con nói thế, nhưng ...không phải thế.

-Tâm-Như, các con tự nguyện tu hành, không do ai ép buộc. Vậy, nếu tự biết không cưỡng được sự quyến rũ của dục lạc, các con có quyền trở lại đời sống phàm tục bất cứ lúc nào. Nhưng lẫn lộn giữa đạo và đời, thầy e rằng các con khó đạt thành ước nguyện.

-Thưa thầy, xin cho con cơ hội tu sửa. Theo nghiêm luật, con xin chịu hình phạt đội hương đêm nay.

-Được, con mới phạm giới lần đầu, thầy chấp nhận lời xin. Đêm nay, sau giờ thiền, con sẽ quỳ gối trước chánh điện, lưng giữ thẳng, hai tay nâng lư hương ngang đầu. Qùy như thế cho đến giờ công phu.

Sa-môn Tâm-Như cúi đầu nhận lệnh. Các bạn đồng môn ái ngại, nhưng họ đều biết, nghiêm luật phải được thi hành với người phạm giới.

Sáng sớm hôm sau, mặt trời chưa thức, sư phụ bước ra chánh điện. Trên bàn thờ, chiếc lư hương mà Tâm-Như thọ phạt, có ba nén nhang còn cháy dở. Trong ánh sáng lờ mờ của ngày chưa rạng, Người thấy một phong thư nằm ngay ngắn dưới lư hương. Thở một hơi nhẹ, Người mở thư ra, nghiêng trang giấy dưới ánh nến và đọc:

Bạch thầy,

Con đã thọ phạt như nghiêm luật đã định. Suốt mấy tiếng đồng hồ qùy gối trong đêm tối, con đã tìm thấy ánh sáng.

Con đã ngộ.

Bạch thầy, con đã ngộ, nếu chữ ngộ được hiểu theo nghĩa “Biết được điều mình đang tìm kiếm. Biết được điều mình phải làm”

Bạch thầy,

Bấy lâu nay theo thầy tu học, con những mong xa lìa khỏi trói buộc của nhân gian, hướng tới cõi tịnh tịch an lạc. Con những tưởng đã quên được bao thống khổ của đời này để dọn tâm thành an nhiên cho niềm vui vĩnh cửu là giải thoát khỏi luân hồi nghiệp chướng.

Nhưng bạch thầy, hôm qua, dưới phố, con đã không tự chủ được khi thấy những thiếu nữ áo xanh ôm thùng lạc quyên cứu trợ trẻ mồ côi. Con đã nhìn lại bình bát con đang ôm trên tay. Con cũng đang đi xin tha nhân nhưng chỉ xin cho riêng mình. Con xuất thế tu học cũng chỉ mong tìm giải thoát cho riêng mình. Con không quên lời thầy thường ân cần dạy dỗ “Hãy tự độ trước rồi sau mới mong độ tha”.

Thưa thầy, con hiểu rằng, vì biết rõ sự non yếu của chúng con mà thầy nhắc nhở như thế. Nhưng bạch thầy, có cơ duyên nào mà người tu hành có thể, vừa chuyên cần tu học để lo tự độ, vừa hành trì Tứ Vô Lượng Tâm để độ tha hay không ? Bởi, nếu người tu hành chỉ dốc hết định huệ, tâm lực vào việc tu học, còn bao đau thương ngoài xã hội kia thì sao ?. Con không thể phủ nhận thực thể của xã hội mà con vẫn phải nương tựa vào - dù dưới hình thức nào - cho tới khi hồn lìa khỏi xác. Đã nương tựa vào là có nợ. Nợ chưa trả, mong gì thanh thản mà tìm an vui cõi lạc phúc ?

Lòng hổ thẹn đã khiến con đứng chết lặng giữa đường phố. Và khi người thiếu nữ tạm trao thùng lạc quyên cho bạn để chạy mua phong bánh, bỏ vào bình bát của con thì lòng con chợt rụng rời tan nát vì xấu hổ.

Bạch thầy,

Xin thầy tha thứ. Đây chỉ là ý nghĩ của riêng con. Thầy vẫn dạy, mỗi người có căn duyên riêng, sẽ tự tìm thấy đường giác ngộ của mình. Con xin hứa cùng thầy, con sẽ vẫn là một sa-môn giữ giới tu hành, chỉ không nhất thiết phải quay mặt với tha nhân mà sẽ đem tấm tình nhân thế, hài hòa giữa đạo và đời, góp phần phụng sự xã hội.

Nếu phải coi sự chọn lựa này là nhập thế, thì con đã nhập thế bằng sự giác ngộ diệu kỳ của đạo pháp.

Khải bạch,
Đệ tử Tâm-Như 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/04/2016(Xem: 3672)
Một đại văn hào người Pháp đã viết câu “Con người không bao giờ tắm hai lần trên một dòng sông“, nhưng Dòng sông Tịnh Độ của tôi không phải là “Dòng sông định mệnh“ của Quỳnh Dao, nên đã chan hòa đến lần thứ 11 tại chùa Linh Thứu rồi mà vị giải thoát vẫn ngời ngợi tỏa sáng. Vâng, khóa Huân Tu Tịnh Độ kỳ 11 từ ngày 14 đến 20 tháng 3 năm 2016 đã có khoảng 180 Phật Tử đa số từ phương xa và 20 Chư Tăng Ni đến tham dự. Đặc biệt vẫn là HT Phương Trượng chùa Viên Giác Thích Như Điển đến khai mạc và giảng Pháp, để phần hướng dẫn khóa tu cho Thầy Hạnh Giới một chuyên gia hay nói đúng hơn là một Hành Giả chỉ dẫn chúng ta con đường ngắn nhất và nhanh nhất đến gặp Đức Phật A Di Đà.
10/03/2016(Xem: 10035)
“This is SBS Radio The many voices of one Australia Broadcasting in Vietnamese Đây là SBS Radio Và sau đây là chương trình phát thanh Việt Ngữ”... Đó là nhạc hiệu mở đầu của Ban Việt Ngữ SBS Radio vào thập niên 1990 - mười lăm năm sau ngày đàn chim Việt tan tác lìa bỏ bầu trời quê hương. Mới đó mà đoàn lưu dân lê bước chân mục tử đã 40 năm rồi! Với hành trang tị nạn trên vai khi đến với SBS Radio, trong tôi vẫn còn đọng lại những thanh âm thảng thốt, kinh hoàng, van xin cầu khẩn của các thuyền nhân đồng hành khi gặp hải tặc Thái Lan, chuyến vượt biên bất thành đưa những con người sắp đến bờ tự do quay trở về quê cũ để rồi tất cả đều bị bắt vào tù, dù là trẻ con còn bồng ẳm trên tay. Đất nước tôi như thế đó, những con người còn lại trên quê hương sống vất vưởng đọa đày, những con người bỏ nước ra đi không nhìn được trời cao mà lại chìm mình dưới lòng biển lạnh
10/03/2016(Xem: 10075)
Năm 1979 thường được coi là điểm khởi đầu của nền báo chí Việt ngữ tại Úc khi số đầu tiên của tờ Chuông Sài Gòn được phát hành tại Sydney. Tờ báo này xuất bản 2 tuần một lần và sau đó đã trở thành một tuần báo. Trong vòng bốn thập niên qua, truyền thông tiếng Việt đã trải qua thời kỳ phát triển không khác chi truyền thông của các cộng đồng văn hóa đa nguyên khác, theo nghĩa là ngành này đã phát triển về số lượng cũng như sức mạnh theo đà phát triển của cộng đồng nói tiếng Việt.
01/02/2016(Xem: 15106)
“Đế Minh” là cháu ba đời Vua“Thần Nông”tuần thú, chuyển dời phương nam Đến núi Ngũ Lĩnh, (Hồ Nam) (1) Gặp nàng “Tiêngiới” lấy làm hân hoan Kết duyên chồng vợ vẹn toàn Sinh con: “Lộc Tục” hiền ngoan nhất đời “Đế Minh” quyết định truyền ngôi
31/01/2016(Xem: 3399)
Dì Trang là em của má tôi. Nếu không kể bên phía má, tôi có thể gọi dì bằng vai thấp hơn. Đơn giản, ba tôi là chú của chồng dì Trang. Khi ba tôi rời Hà Tĩnh để vào Nam, vào một thời xưa lắm, nghĩa là nói kiểu dân gian là năm một ngàn chín trăm gì đó, có dẫn theo một người cháu.
31/01/2016(Xem: 2863)
Tôi trở về Huế với một tâm trạng nôn nao bồi hồi! Hơn 30 năm sau mới nhìn lại Huế thân yêu, nơi đã cho tôi mật ngọt của thời mới lớn! Phi trường Phú Bài vẫn vậy, vẫn u buồn ảm đạm vào mùa mưa lụt, dù đã mấy mươi năm qua cũng chẳng rộng lớn, sửa sang gì hơn. Đã thế, tôi đặt chân xuống phi trường khi trời đã về chiều nên càng hiu hắt buồn. Niềm vui rộn ràng chỉ bừng lên khi thấy một số bạn cũ đã đứng chờ sẵn bên ngoài. Chúng tôi chỉ biết ôm nhau trong tay với bao niềm cảm xúc, nhìn nhau miệng cười mà nước mắt rưng rưng!
30/01/2016(Xem: 6078)
Có một y viện huyện thuộc vùng cao nguyên Thái Lan, do giao thông bất tiện nên bệnh nhân phải đi từ sáng sớm đến bệnh viện để khám và kịp quay về nhà trước khi trời tối.
20/01/2016(Xem: 4481)
Xin có vài dòng tâm tư nơi đây. Truyện này có một tựa đề rát là phim bộ Hàn Quốc. Tác giả đã nghĩ tới các tựa đề khác cho nhẹ nghiệp tình -- thí dụ như “Tay Ai Chưa Nắm Một Lần” hay “Dây Chuông Ai Níu Bên Trời” – thì lại rất là cải lương, và chẳng hấp dẫn tí nào. Truyện này có thể có vài dị bản khác nhau. Nguyên khởi là viết cho Báo Xuân Việt Báo theo nhu cầu phải có chất lãng mạn thế gian. Cùng lúc, gửi cho nhà thơ Kinh Bắc để đăng trên ấn bản xuân tạp chí Suối Nguồn (của Trung Tâm Dịch Thuật Hán Nôm Huệ Quang), với lời dặn dò rằng xin nhà chùa tùy nghi sửa đổi, cắt bớt, hay thêm vào sao cho phù hợp với chánh pháp.
15/01/2016(Xem: 11972)
Ngày xưa ở tại ven sông Có chàng khỉ sống ung dung một mình Mạnh sức lực, lớn thân hình Thêm tài nhảy nhót tài tình kể chi. Giữa sông có đảo đẹp kia Bao nhiêu cây cối rậm rì xanh tươi Trái cây ngon ngọt khắp nơi Nào hồng, nào chuối chào mời khỉ ta. Từ bờ tới đảo khá xa May thay có đá nhô ra giữa dòng
13/01/2016(Xem: 13824)
Việt nam nước tôi có chiều dài lịch sử thăng trầm trãi qua nhiều thời kỳ chống giặc ngoại xâm để giữ vững và mở rộng biên cương tổ quốc. Rồi qua hơn ba thập niên kể từ năm 1945 đến năm 1975 của thời hiện đại lại thêm một lần nữa Tổ quốc ngập chìm trong khói lửa chiến tranh tương tàn mà cho đến tận ngày nay vết thương vẫn chưa chữa lành bởi vì người ta nhân danh chủ nghĩa này lý thuyết nọ là những ý thức hệ ngoại lai.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]