Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

08. Vì Hiếu Quên Thù

29/08/201105:03(Xem: 3077)
08. Vì Hiếu Quên Thù

LƯỢC TRUYỆNTIỀN THÂN ĐỨC PHẬT
Hòathượng Thích Ðức Niệm
PhậtHọc Viện Quốc Tế, California, 1998

Vì Hiếu Quên Thù

Một hôm trên pháp tòađang thuyết giảng về lý Nhân Quả, khi đề cập đến kiếp quá khứ, đức Phật nói vớiđại chúng rằng: Thuở đời quá khứ vô lượng kiếp có một nhà vua rất mực nhân từ,lấy điều nhân nghĩa hiền đức trị dân, nhờ vậy mà khắp nơi thanh bình lạcnghiệp, dân chúng trong nước mến phục đức vua, nên thường gọi vua làHiền-Vương. Lúc bấy giờ có vua nước lân bang vô cùng tham lam độc ác, bóc lộtdân lành, hành hạ trăm họ, tóm thâu của quý trong thiên hạ dồn vào kho tàng nhàvua. Vì vậy, đâu đâu trong nước của nhà vua ác độc kia cũng nghe thấy tiếng tathán oán hận. Nhân dân gọi vua đó là Ác-Vương.

Vua lân bang tham ácthấy nước của vị vua Hiền-Ðức ngày một thanh bình giàu mạnh, dân chúng sốnghạnh phúc ấm no, mới nghĩ bụng rằng, từ lâu nghe nói vị vua Hiền-Ðức nầy chưatừng sát sanh giết hại mạng sống của ai. Nếu nay ta đem quân đánh chiếm thìchắc dễ dàng chiến thắng. Nghĩ như vậy rồi, Ác-Vương liền hội họp triều thần,trình bày kế hoạch xuất quân tấn công nước của vua Hiền-Ðức. Quần thần văn võbá quan của Ác-Vương đều tán đồng ca tụng Ác-Vương là bậc vua anh hùng tài trí,dũng lược có tài cái thế an bang.

Nghe quân của Ác-Vươngtấn công xâm lăng nước mình, vua Hiền-Ðức còn đang suy nghĩ tấn thối lưỡng nan,thì các đại thần tướng sĩ hợp nhau lại tâu vua rằng: "Tâu Bệ-hạ! Xin bệ hạlập tức ra lệnh xuất binh dẹp trừ quân giặc xâm lăng. Hiện nay trong triềukhông thiếu gì mưu sĩ tướng tài quân giỏi. Xin Bệ-hạ phải nghĩ đến sự an nguycủa quốc gia xã tắc và sự sanh tồn của muôn dân mà lập tức hạ chiếu chỉ cấp tốcxuất quân để diệt trừ giặc".

Vua Hiền-Ðức nghĩrằng: "Nếu ta xuất quân thắng địch, thì sẽ gây ra quân ta và quân giặccảnh đầu rơi máu đổ, tạo điều đau khổ cho vợ con họ biết chừng nào. Còn nếu takhông xuất quân, thì dân tình sẽ tắm máu đào trong cảnh binh đao khói lửa, gâynên tang tóc khóc than ngút ngàn, bởi quân giặc hoành hành. Cho dù thắng haybại cũng chỉ vì ngôi vị đế vương của ta. Ta không thể nào nhẫn tâm làm việc nhưthế nầy".

Biết được ý nghĩ củavua Hiền-Ðức, nên đã bao lần quần thần hội họp triều kiến khẩn thiết lạy xinnhà vua hãy cấp tốc ra lệnh xuất quân phản công để diệt trừ quân giặc xâm lăng.Nhưng nhà vua vẫn thái độ trầm buồn yên lặng. Quần thần tướng sĩ đều cho nhưvậy là điều sỉ nhục quốc thể, khinh thường quốc dân, nên họ tự động cùng nhauđồng tâm quyết chí tự điều khiển binh mã ra trận chống giặc. Riêng vua Hiền-Ðứcbàn cùng thái tử rằng: "Ta không thể chứng kiến cảnh xương rơi máu đổ, chỉvì ngôi vị của cha con ta. Vậy cha con ta nên rời khỏi hoàng thành nầy. Mặc chokẻ giặc muốn chiếm nước chiếm ngôi, miễn bá tánh trăm họ tránh khỏi chết chóckhổ sở là cha an lòng rồi!"

Thế rồi, vua Hiền-Ðứcvà thái tử cùng nhau lén ra khỏi hoàng thành, lẩn tránh lên núi cao rừng thẳmẩn cư. Vài hôm sau quân giặc tấn công chiếm thành, tiến thẳng vào cung điện nhàvua lục soát, nhưng không thấy vua Hiền-Ðức đâu cả. Quân giặc cả giận truyềnlệnh: "Ai tìm bắt được hoặc chỉ chỗ ẩn cư của vua Hiền-Ðức thì sẽ đượctrọng thưởng trăm ngàn lượng vàng và chức quan lớn". Lệnh nầy chẳng baolâu truyền khắp cả nước.

Sau khi rời khỏi hoàngcung đi ẩn vào chốn thâm sơn cùng cốc, vua Hiền-Ðức ngày đêm tĩnh tọa suy tư sựđời: "Thế gian vô thường mộng huyễn, phú quý danh vọng phù du, quốc giahưng vong an nguy trong tấc bóng, mạng sống trong hơi thở. Chúng sanh vì sắctình danh vọng lợi lộc quyền uy, mà đời đời phải trôi lăn lặn hụp trong biểnkhổ luân hồi". Tư duy việc đời, rồi nghĩ đến thân phận bọt bèo, nên nhàvua suốt ngày sống trong chánh niệm thiền quán. Còn thái tử thì ngày ngày vàorừng tìm hoa trái để dâng cho vua cha độ nhựt. Vua và thái tử đã bắt đầu quenvới cuộc sống thanh đạm êm đềm, vui với cảnh thiên nhiên "cái thân ngoạivật là tiên trong đời".

Cuộc sống thanh tịnhbình thản trong chốn rừng già tịch mịch đã làm cho hai tâm hồn vua và thái tửan vui với những ngày chim kêu vượn hú, cây cỏ núi rừng, non nước trời mây; đêmđêm thả hồn với trăng sao, cõi lòng hòa cùng với bao la vũ trụ, quên hết chuyệnđời.

Cuộc sống ẩn dật củanhà vua lặng lẽ trôi qua như dòng suối mát, tưởng thế là đã yên phận. Nào ngờ,bỗng một hôm có người Bà-la-môn đến tìm gặp vua và nói: "Tôi là người đóikhổ không đủ cơm ăn áo mặc. Nghe lời truyền rao của vua Ác-Vương rằng: Ai kiếmđược Ngài thì sẽ được trọng thưởng trăm ngàn lượng vàng và được quan tước lớn.Vì lẽ sống, tôi không quản ngại cực khổ hiểm nguy, trải qua bao ngày tháng lặnlội đó đây để tìm Ngài, thì mãi đến hôm nay mới được gặp".

Vua Hiền-Ðức nghexong, bình thản đáp: "Hiện nay ta không còn gì hết! Thôi thì ta vui lòngcho nhà ngươi cái thân mạng của ta đây, để nhà ngươi đem nộp cho tân vương thìsẽ được trọng thưởng, hưởng giàu sang, quan to chức lớn".

Nghe nhà vua Hiền-Ðứcbảo thế, người Bà-la-môn rất đỗi vui mừng nhưng làm bộ than thở nói: "Vìhoàn cảnh chứ tôi nào có đành lòng làm chuyện nầy đâu!"

Vua Hiền-Ðức từ hòanói với người Bà-la-môn: "Ngươi cứ nên làm theo ý định đã thúc đẩy ngươiđến đây tìm ta. Ta vui lòng xả bỏ thân nầy. Ðời người sớm muộn, già trẻ gì rồicũng một lần chết. Sống mà có ích cho đời thì đáng sống. Còn sống mà không cóích cho đời thì cái sống đó có ý nghĩa gì đâu? Chết mà mà có ích cho ai đượcnhiều, thì ít nhất cái chết của ta cũng giúp được cho ngươi sẽ có đời sống tốtđẹp hơn. Ðời người chỉ là một giấc mơ. Tất cả thế gian nầy đều là tạm bợ mộnghuyễn. Ngươi cứ tự tiện dùng thân mạng ta".

Người Bà-la-môn nói:"Nếu lòng từ bi của Ngài đã quyết, thì xin Ngài vui lòng theo tôi vào kinhthành để tôi hiến Ngài lên cho tân vương".

Nhà vua đôi lời từbiệt thái tử, rồi theo sau người Bà-la-môn để vào kinh thành. Thái tử kêu gàothan khóc, nhưng không dám làm phật lòng vua cha!

Vừa thấy vua Hiền-Ðứctrong phong thái thản nhiên trước bệ rồng của mình thì lòng vua Ác-Vương rấtđỗi ngạc nhiên, không dấu nỗi vui mừng đắc ý và truyền lệnh trọng thưởng chongười Bà-la-môn, đồng thời ra lệnh lập tức giam vua Hiền-Ðức vào ngục tối.

Sau khi nhốt vuaHiền-Ðức vào ngục, Ác-Vương ra lệnh truyền rao cho dân chúng biết ngày xử tửvua Hiền-Ðức bằng cách đốt sống. Dân chúng nghe tin nầy, ai nấy đều xúc độngrơi lệ khóc than như mất một bậc cha hiền. Việc gì đến rồi phải đến. Ngày đưavua Hiền-Ðức lên dàn hỏa diễn ra nơi pháp trường. Dân chúng khắp nơi trong nướcthương tiếc đổ về pháp trường như nước lũ vỡ bờ, để mong được chiêm ngưỡng bậcquốc phụ của họ lần cuối.

Riêng về thái tử, saukhi vua cha rời rừng sâu theo người Bà-la-môn về triều, thì giả dạng làm ngườithợ săn chen lẫn trong đám thường dân đông đảo đến pháp trường. Trước khi bịchâm lửa hành quyết, vua Hiền-Ðức ngước mắt nhìn trời thốt to lên mấy lời tâmhuyết cuối cùng: "Hỡi những người con hiếu thảo hãy noi gương cha mẹ hiềnđức nhân nghĩa mà dùng Từ-Bi-Hỷ-Xả nhân hậu đối xử với mọi người. Nên lấy ânbáo oán, thì oan khiên sẽ tiêu diệt. Không nên lấy thù trả oán thì thù oán sẽchất chồng, mà kiếp kiếp sẽ phải chìm đắm trong vòng sanh tử trả vay. Hãy nhớnhững lời ta đây, hỡi những người con hiếu thảo!"

Sau khi vua Hiền-Ðứcchết, thái tử trở lại núi rừng, nơi vua cha và thái tử đã từng sống qua nhữngngày tháng êm đềm thanh thoát, nhưng bây giờ đây chỉ còn lại kỷ niệm mà thôi.Thái tử một mình một bóng sống lặng lẽ với cỏ cây hoa lá thú rừng. Nhưng đôilúc thái tử nghĩ đến vua cha lòng trào dâng uất hận, quyết tìm cách báo thù.Những lúc ấy, hình ảnh của vua cha hiền từ thản nhiên ngồi trên dàn hỏa thốtlên những lời thống thiết cuối cùng lại hiện rõ về chiếm trọn tim óc của tháitử, làm cho lòng thái tử trở nên bình thản. Ðã nhiều lần nỗi uất hận trào dângthúc dục như thế, nhưng thái tử đều khắc phục dằn lòng được. Có những đêm một mìnhmột bóng dưới ánh trăng thâu, nghĩ đến cái chết của vua cha, nghĩ đến sự tantành của cả một hoàng tộc, lòng thái tử xót xa bất an uất ức, khí xung thiênsôi sục trào dâng.

Thế rồi, vào một ngàykia, nỗi oán hận căm thù xâm chiếm lòng thái tử. Thái tử không còn có thể yêntâm tiếp tục sống trong chốn u tịch rừng già, nên rời bỏ chốn sơn lâm để giảdạng người thường dân lẩn vào chốn kinh thành quyết chờ dịp báo thù cha, đền nợnước cho hả dạ. Nhờ sẵn có bẩm tánh tài trí thông minh với sự khôn ngoan lịch thiệnkhéo léo, nên thái tử đã được người giới thiệu vào làm kẻ tôi tớ giúp việc chomột vị quan đại thần triều đình. Chẳng bao lâu, thái tử đã được phép gần gũi vịquan đại thần và được lòng tin cậy, xem như người tâm phúc, cho làm cận vệ sănsóc hằng ngày. Vị quan đại thần rất đắc ý về người cận vệ tài ba lại chu đáocủa mình. Một hôm, nhân lúc cao hứng, quan đại thần hỏi: "Ngoài việc hằngngày con hầu cận bên ta, con còn có tài đặc biệt nào nữa không?"

Thái tử đáp:"Nghề nào con cũng có thể làm được. Nhưng đặc biệt là nghề nấu ăn thì concó khả năng và thích thú nhất".

Quả thật không sai,sau mấy lần nấu ăn, quan đại thần rất hài lòng về hương vị những món ăn do tháitử nấu. Từ đấy trở đi, quan đại thần lấy làm đắc ý, thường bày yến tiệc mời vuavà các quan đại thần trong triều. Ðặc biệt, mỗi lần vua dự tiệc do thái tử đíchthân đầu bếp thì đều Ác-Vương tấm tắt khen thức ăn đặc biệt ngon. Nhờ sự khéotay, chẳng bao lâu tiếng khen về tài nấu ăn của thái tử được đồn khắp cả hoàngtriều.

Biết được ý vua muốnngười đầu bếp của mình, đồng thời vị quan đại thần nầy cũng muốn đẹp lòng vua,nên đã tiến cử thái tử để cho vua dùng. Nhà vua được người đầu bếp đặc biệtxuất sắc, nên rất đỗi hài lòng. Chẳng bao lâu, thái tử được nhà vua thương mếntin cậy, phong chức quan yến trù để coi việc ăn uống và yến tiệc cho vua. Nhờcách ăn nói khôn ngoan, với tài nấu thức ăn khéo léo, chẳng bao lâu thái tửđược vua xem như người tâm phúc, luôn luôn được gần gũi bên cạnh vua. Từ ngàyđược hôm sớm hầu cận chăm sóc thức ăn cho Ác-Vương, thái tử lại càng tỏ ra tếnhị khôn khéo hiền hậu chân thật, nên Ác-Vương vô cùng thương mến tin cẩn.

Một hôm Ác-Vương bảothái tử chuẩn bị thức ăn để cùng vào rừng săn bắn. Trong lúc Ác-Vương hứng thúmải mê đuổi theo một con nai, nên bỏ đoàn tùy tùng cách xa phía sau. Chỉ cóÁc-Vương và thái tử đuổi theo nai lạc sâu vào rừng già. Ðến trưa, Ác-Vương quámệt mỏi nằm nghỉ dưới gốc cây, trao bảo kiếm cho thái tử cầm giữ. Dưới bóngmát, gió rừng phảng phất hiu hiu, hương rừng thoảng nhẹ, Ác-Vương gối đầu lênbắp vế của thái tử ngủ say lúc nào không hay.

Trong lúc đó, thái tửnghĩ rằng: "Giờ đây kẻ thù đã nằm trong tay ta rồi!" Thái tử rút gươmđịnh chém Ác-Vương. Nhưng ngay khi đó, lời trăn trối của vua cha vang vọng sốngdậy nơi lòng: "Hỡi những người con hiếu thảo! Không nên lấy oán trả oán,thì oán sẽ diệt dứt ... " Rồi thái tử lại nhè nhẹ tra thanh kiếm vào vỏ.Ba lần rút kiếm ra định chém đầu Ác-Vương. Nhưng ba lần hình ảnh của vua chaHiền Ðức hiện rõ về trong tâm thức với lời trăng trối thống thiết trước khichết trên dàn hỏa đỏ rực, làm cho thái tử ngừng tay.

Ác-Vương giựt mìnhtỉnh giấc hoảng hốt kêu to trong giọng nói kinh hoàng, đôi mắt trân trân nhìnthái tử nói: "Vừa rồi trẫm chiêm bao thấy có người cầm gươm muốn giếttrẫm! Kinh khủng quá!"

Thái tử từ tốn lễ độthưa: "Tâu Bệ-hạ! Có lẽ bệ hạ vì quá mỏi mệt, nên ngủ chiêm bao thế thôi.Có hạ thần đây rồi, ai mà dám hại Bệ-hạ! Xin Bệ-hạ cứ yên tâm".

Ác-Vương nghe ngườiđầu bếp tâm phúc của mình nói thế, lấy làm yên lòng rồi năm ngủ tiếp. Nhưngchẳng bao lâu, nhà vua lại giựt mình hoảng hốt thốt lên: "Trẫm chiêm baothấy có người rút gươm muốn giết trẫm!" Ðến lần chiêm bao thứ ba, Ác-Vươngquá kinh hãi về giấc mộng khủng khiếp, nên ngồi chỗi dậy kể cho thái tử nghe:"Trong giấc chiêm bao, trẫm thấy rõ thái tử con vua Hiền-Ðức rút gươm muốnchém ta! Lạ thật! Tại sao chỉ trong thời gian ngắn, mà trẫm đã ba lần chiêm baogiống nhau như thế nầy?" Ác-Vương rất đỗi lo âu cho mệnh hệ của mình.

Thái tử thấy thái độcủa Ác-Vương bàng hoàng khủng hoảng, động mối từ tâm, không còn muốn che dấunỗi lòng sâu kín đã ấp ủ từ lâu, liền bày tỏ tự sự với Ác-Vương: "TâuBệ-hạ! Bệ-hạ có biết chăng? Con của tiên vương Hiền-Ðức chính là hạ thần đây!Trong khi Bệ-hạ mỏi mệt say mê trong giấc ngủ, hạ thần đã ba lần rút gươm toanmuốn chém đầu Bệ-hạ để trả thù cho Phụ-vương. Nhưng nhớ lại lời phụ vương củahạ thần khi bị đưa lên dàn hỏa bức tử, trước khi nhắm mắt, người còn thốngthiết căn dặn: "Hỡi những người con hiếu thảo! Không nên lấy oán báo oán,oán sẽ chất chồng. Nên lấy ân trả oán, thì oán sẽ dứt diệt ..." Do vậy màhạ thần đã dừng tay. Và sáng nay, khi mải mê rượt đuổi nai, hạ thần cố ý làmcho Bệ-hạ lạc vào rừng sâu, chứ đâu phải hạ thần không biết lối ra! Hạ thần đãcó những việc lỗi lầm như thế, xin Bệ-hạ tùy ý xử phạt".

Ác-Vương nghe thái tửthuật xong, rất đỗi xúc động phán rằng: "Ta rất khâm phục tiên vương làbậc nhân đức.Ta rất xúc động quý mến khanh là kẻ chí hiếu đáng nêu gương chođời noi theo. Còn so lại ta đây, thật quả là kẻ quá tham ác tàn nhẫn. Giờ đâyta hiểu rõ điều thiện lẽ ác rồi. Ðúng lúc ta vui lòng đền tội để giải nỗi oankhiên khổ tâm thầm kín của khanh bấy lâu".

Nghe qua những lờinầy, thái tử quá xúc động quỳ khóc trước mặt Ác-Vương, rồi ngước mặt lên trờiphát nguyện những lời thống thiết: "Giữa Bệ-hạ và tiểu thàn nầy kể từ naytrở đi không còn thù hận gì nửa. Xin Trời Ðất và Phụ-vương chứng cho lòng thànhcủa con!"

Ác-Vương cảm động nắmlấy tay của thái tử rưng rưng rơi lệ, nghẹn ngào thốt không nên lời. Thế rồihai người, Ác-Vương và thái tử cùng nhau ra khỏi rừng già, thì thấy đoàn tùytùng đều lộ vẻ lo âu cho nhà vua, họ đã chờ đợi nhà vua từ lúc nào.

Ác-Vương hướng về đámquần thần tùy tùng nói lớn: "Các khanh hãy nghe đây! Hôm nay ta muốn chocác khanh biết một điều tối quan trọng. Các khanh có biết thái tử con của tiênvương Hiền-Ðức giờ nầy đang ở đâu không?"

Mọi người đều ngơ ngácnhìn nhau trước câu hỏi bất ngờ của Ác-Vương. Thì trong đám tùy tùng có một đạithần bước ra quỳ gối tâu rằng: "Tâu Bệ-hạ! Khi hành quyết hỏa thiêu vuaHiền-Ðức, thì thái tử con của vua ấy đã thất kinh hồn vía chạy lạc mất cho đếnnay, không còn biết tông tích ở đâu nữa cả".

Ác-Vương xoay lại nắmlấy tay thái tử giơ cao lên hướng về mọi người mà phán to rằng: "Ðây chínhlà thái tử con của tiên vương Hiền-Ðức. Ðúng là một người con chí hiếu, một bậctrung thần nhân hậu, không trả thù, mà lấy ân báo oán. Nhờ đức tánh trung hậuquân tử đó, nên ta còn được sống mà gặp lại các khanh nơi đây. Nếu không, ta đãrơi đầu nơi rừng sâu, đâu còn có cơ hội gặp lại các khanh nữa. Nay ta quyếtđịnh trả nước lại cho thái tử và làm lễ đăng quang để thái tử lên ngôi kế vìtiên vương Hiền-Ðức. Từ đây hai nước kết giao thân hữu".

Trước lời tuyên bố bấtngờ của Ác-Vương, quần thần ngơ ngác ngạc nhiên. Sau đó, thái tử được suy tônlên ngôi vua, dân chúng cả nước vạn triệu người như một hân hoan khấp khởi vuimừng, âu ca lạc nghiệp.

Giảng xong câu chuyệntiền kiếp trên đây, đức Phật hướng về đại chúng nói rằng: "Vị Ác-Vương ởthời quá khứ kia chính là Ðề-Bà Ðạt-Ða. Còn vị thái-tử trung hiếu kia là tiềnthân của A-Nan. Vị vua Hiền-Ðức thời quá khứ đó chính là tiền thân của Thích-CaNhư-Lai đây vậy".

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/08/2010(Xem: 6996)
Tại Keelung, Đài Loan có một cửa hàng với cái tên là “Ngộ Duyên Hào”. Ông chủ Lâm vốn là một người rất tử tế, xung quanh khu vực ông sống có rất nhiều những cư dân đánh cá hay kiếm sống quanh đó.
04/08/2010(Xem: 3470)
Tác-giả Thiện Xuân Malkhanova là một con người thật đặc-biệt. Còn nhớ năm 2000 khi chị Trương Anh Thụy và tôi đi sang họp Đại-hội Văn-bút Thế-giới ở Mạc-tư-khoa, chúng tôi đã để ý đến chuyện đi đường, gặp con sâu róm ở dưới đất, chị đã ân cần lấy một cái lá nâng nó lên rồi đặt nó lên một cành cây gần đó. Một con người từ-bi đến với cả cỏ cây, đất đá! Chị bảo đó là điều chị đã học được từ đạo Phật.
04/08/2010(Xem: 3112)
Không biết từ lúc nào, mà ngôi tịnh thất vô danh thấp thoáng dưới tàn cây huỳnh đàn rậm lá trên đỉnh núi Ông cheo leo mây mù đong đưa bao phủ quanh năm, đã được dân quê dưới chân núi ưu ái gọi là am Mây Ngàn thay thế cho cái tên “chòi đạo Ân” mà họ hùa nhau ám chỉ túp lều lá của sư Từ Ân ngày trước. Thuở mới đăng sơn cắm dùi khẩn đất làm chốn ẩn tu, sư lủi thủi một mình chẳng có móng đệ tử lăng xăng đón đưa phục dịch, sư tự vác cuốc, quẩy gánh... lặng lẽ lên tận đỉnh, khai phá được một khoảnh đất nhỏ làm rẫy. Sư bắt đầu trồng các loại rau đậu, khoai, bắp, cà dưa... để sớm gặt hái hoa lợi,
20/07/2010(Xem: 8716)
Đạo Phật là đạo của từ bi và trí tuệ, tất cả mọi hành động bằng thân, lời và ý đều xuất phát từ hai tiêu chuẩn đó nhằm đem lại lợi lạc cho mình và tha nhân. Đây là những đức tính rất cơ bản để phát triển về Giới-Định-Tuệ mà một người muốn thăng tiến về mặt tâm linh thì cần phải quan tâm và thực hiện một cách triệt để.
17/07/2010(Xem: 3877)
Đêm qua con nghe bài pháp “Vượt qua oan gia trái chủ”của thầy Thích Tâm Đại, cảm thấy bàng hoàng, sửng sốt, mồ hôi ướt lạnh. Hóa ra, trong quá khứ, con đã tạo vô lượng tội, gieo vô lượng oán thù, oan gia trái chủ.
25/06/2010(Xem: 4257)
Vì không biết sự vận hành nội tại nên hầu hết mọi người trên thế gian không ai nhận ra chính mình và cũng không đồng ý với chính mình. Có người nương vào thể chất như thân thể cao lớn, mạnh khỏe, sắc diện đẹp đẻ, sáng sủa thù thắng …và cho đó là ta. Có vị lấy tri thức như bằng cấp học vị là mình như tiến sĩ, bác sĩ hay kỹ sư v.v. Có vị lấy danh vọng chức tước như tổng thống, thủ tướng, bộ trưởng v.v.làm ta.
25/06/2010(Xem: 7388)
Cô Sue Dixon, một Phật tử người Úc, vướng phải căn bệnh hiểm nghèo, ung thư ngực, trong lúc dường như phải bó tay và hoàn toàn tuyệt vọng thì các Tăng sĩ Tây Tạng đã hướng dẫn phương pháp Thiền quán. Tuyệt vời thay, không lâu sau đó, cô bình phục và khỏe mạnh như xưa. Bài viết dưới đây, cô sẽ kể cho đọc giả biết quá trình loại bỏ bệnh ung thư như thế nào
02/06/2010(Xem: 2727)
Đó là ngày 26 Tháng 10 năm 1967. Tôi đang bay ngay trên bầu trời trung tâm Hà Nội đan chéo đầy hỏa tiễn trong phi vụ thứ 23 của mình, thì bị một hỏa tiễn Nga kích thước cỡ cột điện thoại bắn tung cánh phải chiếc Skyhawk ném bom tôi bay. Phi cơ bổ nhào từ cao độ khoảng 4,500 feet xuống đất, bị đảo ngược lại, gần như chúi thẳng đầu xuống đất. Tôi kéo cần bung dù thoát hiểm. Lực phóng làm tôi bị bất tỉnh vì tốc độ gió đâu khoảng 500 knot (chú thích người dịch: 926 km/giờ). Lúc đó tôi không nhận thức được, nhưng chân phải ngay quanh đầu gối và ba nơi trên cánh tay phải cùng cánh tay trái của tôi đã bị gãy. Tôi tỉnh lại ngay trước khi cánh dù của tôi rơi xuống một hồ nước ngay một góc của Hà Nội, một trong những hồ họ gọi là Hồ Tây. Mũ phi công và mặt nạ dưỡng khí của tôi đã bị thổi bay đâu mất. Tôi chạm mặt nước và bị chìm xuống đáy. Tôi nghĩ rằng hồ sâu khoảng 15 feet, cũng có thể 20. Tôi chòi chân phía dưới để nổi lên mặt nước. Lúc đó tôi không cảm thấy bất kỳ đau đớn nào. Tôi hít một
03/04/2010(Xem: 2940)
Đạo vốn vô ngôn; do ngôn mà hiển đạo, thế nên có mạn lục, có bảo huấn, có bút ngữ, có võ khố. Nay đây, có Hòa thượng Văn Thủ, tự Nhất Ty (1607 – 1648) người nước Nhật Bản, lúc đầu ở ẩn nơi Tây Cương thuộc đất Lạc Tây, về sau Ngài về núi Đan mai danh ẩn tích. Nhưng các hàng xuất gia khắp chốn hải hồ tìm đến bên Ngài kết am tranh tu học số đông không kể xiết. Rốt cuộc, danh Ngài thấu đến cửu trùng, vua thỉnh Ngài trụ trì hai chùa Pháp Thường và Linh Nguyên, ban hiệu là Định Huệ Minh Quang Phật ĐảnhQuốc Sư. Những khi nhàn rỗi, Ngài xem lại gương xưa góp nhặt những di ngôn, vãng hạnh của Phật Tổ và thêm vào đó lời phẩm bình biên tập lại thành bộ Truy Môn Bảo Tạng Tập (trong bản dịch nầy tạm lấy nhan đề là Kho Báu Nhà Thiền). Bộ sách nầy thật là cây đuốc huệ trong đường tăm tối, là thuốc hay cho người bệnh, chẳng những lợi cho người đương thời mà cũng là tiếp độ kẻ hậu côn, thật không có gì hơn vậy. Than ôi! Vào niên hiệu Bảo Vĩnh vì ảnh hưởng thời cuộc nên đâu có khắc bản và muốn lưu hàn
21/02/2010(Xem: 4411)
Tại biên giới của tỉnh Tây Khương sát với Tây Tạng có một bà lão sống cô độc, chồng và đứa con trai duy nhất của bà đã qua đời. Bà sống nhờ một thửa đất nhỏ trồng những hạt ngũ cốc. Vì cuộc đời đã trải qua nhiều gian truân từ nhỏ, bà lão cảm thấy nghiệp chướng trong người rất nặng nên đã cố công tìm hỏi những người chung quanh phương pháp chuộc tội để cầu xin cho tâm hồn được bình yên.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567