Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

02. Xá-Lợi-Phất Niết Bàn Trước Phật

29/08/201105:03(Xem: 4270)
02. Xá-Lợi-Phất Niết Bàn Trước Phật

LƯỢC TRUYỆNTIỀN THÂN ĐỨC PHẬT
Hòathượng Thích Ðức Niệm
PhậtHọc Viện Quốc Tế, California, 1998

Xá-Lợi-Phất Niết Bàn Trước Phật

Khi biết đức Phật sắpvào Niết-bàn, tôn giả Xá-Lợi-Phất đã tận dụng khả năng thần thông trí huệ củamình giáo hóa vô số người phát tâm Bồ-đề tu học đạo giác ngộ, rồi chính tôn giảđến trước đại chúng nói lớn rằng: "Thưa chư đại chúng! Tôi không yên lòngnhìn thấy cảnh đức Như-Lai vào Niết-bàn". Nói xong, tôn giả Xá-Lợi-Phấtbay lên hư không dùng lửa thần thông tự thiêu đốt mình, làm sáng rực cả bầutrời mà vào Niết-bàn.

Trước cảnh tượng lạlùng khiến cho đại chúng ai nấy đều xúc động bàng hoàng thương tiếc, trầm lặngnhìn nhau, lắc đầu não ruột thầm than. Ðể giải tỏa không khí yên lặng nặng nềbao trùm nỗi hoài nghi trong lòng đại chúng, tôn giả A-Nan từ chỗ ngồi đứng dậyđến trước pháp tòa đảnh lễ đức Phật rồi kính cẩn thưa: "Bạch đức Thế-Tôn!Tại sao tôn giả Xá-Lợi-Phất lại vội vàng dùng lửa thần thông nhập diệt trướcđức Thế-Tôn, việc làm khiến cho đại chúng đều sửng sốt xót xa thương tiếc nhưvậy? Cúi mong đức Thế-Tôn rủ lòng thương xót, vì giải tỏa sự nghi ngờ của đạichúng và chúng sanh đời sau mà giảng nói cho".

Ðức Phật dạy rằng:"Nầy A-Nan! Chẳng những chỉ ngày nay Xá-Lợi-Phất nhập diệt trước khiNhư-Lai vào Niết-bàn đâu, mà nhiều kiếp về trước ông ấy cũng đã làm như vậyrồi".

A-Nan thưa: "Bạchđức Thế-Tôn! Trong những kiếp quá khứa tôn giả Xá-Lợi-Phất cũng đã từng làm nhưthế, vậy việc ấy ý nghĩa như thế nào? Cúi xin đức Thế-Tôn dủ lòng từ bi giảngnói những nguyên nhân sâu xa đó để cho Ðại-chúng dứt mối nghi ngờ".

Ðức Phật bảo A-Nanrằng: "Nầy A-Nan! Ông hãy lắng nghe cho kỹ, cách đây hơn một kiếpA-tăng-kỳ, có vị quốc vương tên là Ðại-Quang-Minh tu hạnh bố thí không nghịch ý.Hằng tháng nhà vua cho voi ngựa xe cộ chở thức ăn áo quần thuốc men đồ dùng rabốn cửa thành bình đẳng bố thí cho những người thiếu thốn. Dân chúng các tiểuquốc đều đến nhận lãnh đồ bố thí của nhà vua. Ðức bố thí của vua Ðại-Quang-Minhđã khiến cho dân chúng bốn phương đều được ấm no, đất nước thái bình thạnh trị.Tiếng thơm đồn xa, khắp thiên hạ nức lòng ca ngợi ân đức của nhà vua. Lúc bấygiờ có vị Tiểu-vương nước láng giềng thấy sự thạnh trị hùng cường của nướcBa-La-nại và vua Ðại-Quang-Minh được khắp nhân gian bốn phương thiên hạ tônsùng ân đức như cha mẹ, nên đem lòng ganh ghét oán thù.

Vị Tiểu quốc vươngnước láng giềng nầy biết vua Ðại-Quang-Minh tu hạnh bố thí bất nghịch ý, nên đãtriệu tập quần thần hỏi rằng: "Nầy các khanh! Trong các khanh ai là ngườicó thể vì ta đến kinh đô nước Ba-La-Nại để xin đầu nhà vua Ðại-Quang-Minh đemvề đây, ta sẽ trọng thưởng chức đệ nhất quan đầu triều và ngàn cân vàng".Quần thần đều im lặng, không ai dám nhận lãnh sứ mạng nguy hiểm ấy cả. Trước sựim lặng đó, khiến cho Tiểu-vương thất vọng buồn bực vô cùng.

Sau đó, Tiểu-vương lạitruyền lại khắp trong nước rằng, ai đến thành Ba-La-Nại xin được đầu vuỪại-Quang-Minh đem về thì sẽ được trọng thưởng mười ngàn cân vàng. Lúc ấy cóngười Bà-la-môn nghe được phần thưởng quá to lớn như vậy sanh lòng tham, nên đãyết kiến Tiểu-vương, xin nhận lãnh xứ mạng đó. Tiểu-vương vô cùng mừng rỡ, liềnra lệnh cấp lương thực ngựa xe và thúc dục người Bà-la-môn gấp rút lên đường.Trải hơn tháng trời lên núi trèo đèo vượt rừng băng suối, người Bà-la-môn mớiđến được nước Ba-La-Nại.

Khi người Bà-la-mônđến trước cửa thành Ba-La-Nại thì quả đất bỗng nhiên chấn động nứt nẻ, bầu trờiu ám lạnh buốt, chim muông sợ hãi bay tứ tán, mặt trăng lu mờ, sao băng, tinhtú chuyển động mất vị trí, suối hồ ao giếng cạn khô, hoa quả héo sầu, cây lávàng úa rơi rụng, hiện tượng tiêu điều thê thảm hiển bày khắp cả nướcBa-La-Nại, khiến cho dân chúng kinh hãi lo âu.

Lính gác cửa thànhthấy kẻ lạ Bà-la-môn vừa đến thì xuất hiện nhiều hiện tượng suy đồi kinh hoàng,nên hỏi người Bà-la-môn về xuất xứ từ đâu và mục đích đến đây để làm gì? NgườiBa-la-môn kể lể nỗi cực khổ đã trải qua trên đường đi từ tiểu quốc lân bang đếnđây. Và y đến chỉ mong được yết kiến vua Ðại-Quang-Minh để trình bày việc quantrọng. Dù mấy lần quan giữ cửa gạn hỏi việc quan trọng ấy là việc gì, ngườiBà-la-môn vẫn giữ bí mật không nói ý định của mình, mà chỉ nằng nằng nài nỉ xinđược yết kiến Ðại-vương. Lính gác cửa thành vẫn quyết không cho vào. NgườiBà-la-môn quyết tâm đứng ngoài cửa thành suốt bảy ngày đêm, và cuối cùng nói sựthật ý định của mình là, nghe Ðại-vương Quang-Minh tu hạnh bố thí bất nghịch ý,tiếng thơm đồn xa, nên đến đây ra mắt để được xin cái đầu của Ðại-vương.

Vừa nghe, quân línhgác thành nổi khí xung thiên, giận dữ đánh đuổi quát mắng, nếu không có sự cangián kịp thời thì người Bà-la-môn không toàn tánh mạng. Thấy vậy, viên tướngngự lâm quan đem việc xảy ra ngoài cửa thành trong bảy ngày qua tâu với vuỪại-Quang-Minh. Nhà vua nghe kể xong đầu đuôi câu chuyện, liền hạ lệnh quân gáccửa thành cho người Bà-la-môn vào triều ra mắt.

Người Bà-la-môn quỳtrước bệ rồng giả vờ khóc lóc kể lể về nỗi khổ cực hiểm nguy trên đường đi, nỗinhục nhã bị quân lính giữ thành hành hạ bảy ngày qua. Người Bà-la-môn tiếp tụclạy lục lia lịa, khóc than khẩn thiết thưa: "Dù vậy cũng không quản ngại.Kẻ tiện dân nầy từ xa đến đây được yết kiến Ðại-vương là vạn phúc lắm rồi! Dùcó bao khổ nhục đi nữa cũng chẳng đáng gì. Chỉ mong Ðại-vương thương tình hứakhả cho xin một điều duy nhất thôi, thì kẻ tiện dân cũng thỏa nguyện lắmrồi".

Vua Ðại-Quang-Minhphán rằng: "Ðiều gì, nhà ngươi cứ nói tự nhiên, đừng e sợ".

Người Bà-la-môn vậndụng khổ nhục kế thiểu não với giọng khẩn thiết run run thưa: "Tâờại-vương! Ðức độ nhân từ cao cả của Ðại-vương rộng lớn vang lừng bốn phươngthiên hạ đều tôn sùng ngưỡng mộ bái phục. Hạnh tu bố thí bất nghịch ý củỪại-vương mười phương thánh thần trời đất đều chứng giám. Ðức độ nhân từ củỪại-vương chỉ có một không hai trên đời. Tiện dân từ vạn dặm lặn lội gian nan,cam chịu vô cùng cực khổ đến đây, chỉ mong được Ðại-vương mở lượng hải hà mà bốthí đầu của Ðại-vương, thì ơn mưa móc cứu nhân độ thế của Ðại-vương, thật vôlượng vô biên, tiện dân nầy nghìn triệu kiếp ghi xương khắc cốt không dámquên".

Người Bà-la-môn vừadứt lời, các vị đại thần nhìn nhau, nhao nhao lớn tiếng, nổi giận, căm tức cựcđộ. Muốn lôi cổ người Bà-la-môn ra chém đầu ngay.

Nhưng vuỪại-Quang-Minh vẫn thái độ ung dung trầm tĩnh từ hòa can gián quần thần:"Này các khanh! Các khanh đừng làm nghịch ý người".

Rồi nhà vua quay sangdùng lời hiền hòa an ủi người Bà-la-môn. Người Bà-la-môn được thế lại tỏ rathảm não khẩn thiết quỳ tâu tiếp: "Muôn tâu Thánh-lượng! Ân đức bố thí bấtnghịch ý của Thánh-thượng bốn phương thiên hạ xa gần ai nấy cũng nức lòng khâmphục ca tụng tôn sùng ngưỡng mộ. Cho dù kẻ tiện dân nầy có chịu gian nan mấtmạng mà được Ðại-vương bố thí bất nghịch ý, thì kẻ tiện dân nầy còn gì sungsướng phước đức cho bằng".

Nghe người Bà-la-mônnói xong, nhà vua trầm tư suy nghĩ: Từ vô thỉ kiếp đến nay, ta đã bao lần sanhtử tử sanh cũng chỉ vì tham tiếc cái thân nầy. Nay ta vì hoàn thành hạnh nguyệnbố thí bất nghịch ý, để cầu đạo quả Vô-thượng Bồ-đề phổ độ chúng sanh, thì cóxá gì cái thân ô uế giả tạm nầy mà tiếc? Suy nghĩ một hồi, rồi nhà vua nói vớingười Bà-la-môn rằng: "Ngươi yên tâm, không có gì trở ngại. Ta sẽ làm chongươi toại nguyện. Xin hãy chờ ta trong vòng bảy ngày để ta có thời gian sắpđặt người giao phó ngôi vua, phu nhân, thái tử và quốc thành, rồi ta sẽ tặngđầu ta cho".

Quần thần và phu nhân,thái tử cùng hoàng tộc nghe nhà vua quyết định đem đầu cho người Bà-la-môn, tấtcả đều vô cùng xúc động bỏ ăn mất ngủ lăn lộn khóc lóc thở than, tìm đủ mọicách can gián nhà vua nên bỏ ý định. Cùng lúc ấy, hơn năm trăm vị đại thần uấthận đau khổ đập mình xuống đất than thở, họ muốn phanh thây nuốt sống ngườiBà-la-môn kia. Họ hỏi tại sao người Bà-la-môn không xin châu ngọc vàng bạc quýbáu mà lại cứ nằng nằng nài nỉ xin cho được cái đầu máu mủ làm gì? Họ thươnglượng với người Bà-là-môn muốn đổi cái đầu làm bằng bảy thứ báu kim cương thayvì đầu của nhà vua, để cho người Bà-la-môn được giàu sang đời đời. Nhưng thuyếtphục dẫn dụ thế nào đi nữa, người Bà-la-môn cũng đều từ chối, chỉ nhất quyếtxin cho được cái đầu của vua Ðại-Quang-Minh mà thôi.

Mặc dù quần thần, phunhân, thái tử và hoàng tộc khóc lóc lạy lục van xin, nhưng nhà vua lòng đãquyết nói: "Nay ta vì các người và hết thảy chúng sanh mà xả thân bố thí,không vì lý do gì làm ngăn cản hạnh nguyện bố thí bất nghịch ý của ta".

Nói rồi, nhà vua chấptay thành kính hướng về bốn phương đảnh lễ phát nguyện: "Kính lạy mườiphương chư Phật, chư vị Bồ-Tát từ bi thương sót chứng minh gia hộ cho con đượctrọn thành hạnh nguyện". Nói xong, tự tay cắt lấy đầu trao cho người Bà-la-môn.Ngay lúc đó, trời đất rúng động, trên hư không nhạc trời chúc tụng, mưa hoa rảikhắp trên mình nhà vua.

Ðang trong lúc nhà vuathành tâm lễ lạy mười phương, phát nguyện thực hành hạnh bố thí bất nghịch ý,thì trong quần thần có vị đệ nhất quan đầu triều không nhẫn tâm nhìn thấy cảnhtượng đau lòng của nhà vua xả thân cắt đầu bố thí một cách đau đớn, nên vội vàophòng riêng một mình tự sát trước khi vua Ðại-Quang-Minh thực hành tâm nguyệnđầu. Và trải qua nhiều kiếp, tôn giả Xá-Lợi-Phất thực hành tâm nguyện chếttrước ta như thế, chứ nào phải chỉ riêng trong kiếp nầy!"

Nói đến đây, đức Phậtbảo ngài A-Nan rằng, vị quan đệ nhất đại thần đó chính là tiền thânXá-Lợi-Phất. Kẻ Bà-la-môn kia là tiền thân Ðề-Bà Ðạt-Ða. Còn vua Ðại-Quang-Minhchính là tiền thân của Thích-Ca Như-Lai ta đây vậy.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/05/2015(Xem: 5673)
Em đừng hỏi vì sao tôi cưới em Chỉ đơn giản bên em tôi thở được Đó là hai câu thơ của thầy tôi làm tặng người vợ thân yêu của mình khi thầy bị bệnh phải nhập viện.
07/05/2015(Xem: 5700)
Ngày còn đi làm, cứ mỗi lần đến ngày 13 thứ sáu, các bạn đồng nghiệp trong sở tôi kiêng cử dữ lắm, ai cũng cho đó là ngày xấu nhất trong năm. Tôi thì không tin, chỉ cười, cũng không phản đối lòng tin của bạn bè nhưng bây giờ tôi cũng đâm ra sợ ngày này vô cùng: 13 Thứ sáu - ngày Anh tôi ra đi thật quá bất ngờ và quá đau đớn!
02/05/2015(Xem: 3806)
Khi tôi gặp Thầy lần đầu tiên, tôi thật sự là một kẻ phàm phu tục tử có đầy đủ tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến, đã chẳng tu mà chỉ biết hú là giỏi. Mặc dù tôi được sinh ra từ một gia đình có tiếng là theo đạo Phật lâu đời, nhưng từ khi có sự hiểu biết, tôi thấy bà và mẹ chỉ đi chùa mỗi năm vài lần vào dịp lễ lớn, cũng lạy Phật, thắp hương, khấn vái sì sụp gì đó rồi… hết. Còn tôi thì sao, tôi bị sinh ra vào những năm sau cuộc chiến, tưởng là hòa bình lập lại thì dân giàu nước mạnh, tôn giáo được tự do phát triển không ngờ mọi việc hoàn toàn ngược lại, ăn còn không đủ no nói gì đến việc đi chùa nghe Pháp, đọc kinh. Tóm lại tôi hoàn toàn mù tịt về Phật Pháp.
02/05/2015(Xem: 4660)
Tôi gặp nàng tại Đại nhạc hội Việt Nam tổ chức tại Düsseldorf vào một mùa Giáng Sinh xa xưa nhưng không bao giờ quên được dù nàng lúc đó lẫn lộn giữa rừng người đông đảo. Nàng không xinh đẹp tuyệt trần, không ăn mặt lòe loẹt nổi bật, cũng không hoạt bát ồn ào gây sự chú ý của mọi người. Nhưng đối với tôi thì nàng thật đặc biệt với dáng vẻ đoan trang thùy mỵ, với đôi mắt dịu dàng và với sự im lặng của nàng trong một góc vắng của hội trường. Nàng đứng đó, tay cầm một cuốn sách nhỏ, vừa đọc vừa... gặm bánh mì, thỉnh thoảng lại ngước mắt lên nhìn xung quanh coi có gì “lạ” không rồi lại cắm đầu vào cuốn sách, cứ y như trong đó có chỉ chỗ giấu kho vàng vậy!
01/05/2015(Xem: 15093)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé. Hy hữu, vì biết lấy Phật giáo làm lý tưởng đời mình và chọn sự thực hành Phật Pháp như là sinh hoạt nền tảng hàng ngày—không phải ai sinh ra trong gia đình đó cũng đều tin Phật từ nhỏ đến lớn, và nếu tin Phật, cũng không gì bảo đảm là hiểu Phật, thực hành đúng đắn con đường của Phật để gọi là con Phật chân chính.
23/04/2015(Xem: 3144)
Năm nay 2015 tôi có đến ba mùa Xuân. Đó là mùa Xuân của nước Đức, mùa Xuân của nước Nhật và mùa Xuân của Hoa Kỳ. Thông thường mùa Xuân bắt đầu vào cuối tháng 3 dương lịch và kéo dài ba tháng như vậy, để thuận với lẽ tuần hoàn của vạn hữu là Xuân, Hạ, Thu, Đông; nhưng cũng có nhiều nơi mỗi năm chỉ có hai mùa như quê tôi Việt Nam, là mùa mưa và mùa nắng. Trong khi đó Âu Châu, nhất là vùng Bắc Âu, mỗi năm cũng chỉ có hai mùa. Đó là mùa lạnh kéo dài nhiều khi đến 6 hay 7 tháng và mùa ấm chỉ có chừng 3 đến 4 tháng là cùng. Dĩ nhiên là sẽ không có mùa Hè và trời vào Thu lại nhanh lắm, để đón tiếp một mùa Đông băng giá lạnh lùng.
15/04/2015(Xem: 11327)
Một sớm mai nọ, tôi không nhớ ngày ta, ngày tây, chỉ nhớ đầu năm 1984. Buổi sáng hôm ấy đầy dáng Xuân cả đất trời Nam Hà, khi tôi và hằng trăm tù nhân chính trị trên đường đến hiện trường lao động ở dải đất dài, mà hai bên toàn là núi đá vôi cao, thấp trùng trùng, điệp điệp. Người địa phương Ba Sao gọi là THUNG.
31/03/2015(Xem: 18306)
Dianne Perry, (sau này được biết đến qua pháp danh Tây Tạng của cô là Tenzin Palmo) là một vị ni cô người Anh đầu tiên, đã ẩn cư thiền định suốt 12 năm trong một hang động cao 12.300 bộ trên dãy Hy Mã Lạp Sơn, cách ngăn khỏi thế giới trần tục bởi những rặng núi phủ đầy tuyết trắng quanh năm. Tenzin Palmo đã sống một mình và tu tập trong động tuyết này. Cô đã chạm trán với những thú rừng hoang dã, đã vượt qua những cơn lạnh khủng khiếp, những cái đói giết người, và những trận bão tuyết kinh hồn; cô tự trồng lấy thực phẩm và ngủ ngồi trong cái hộp gỗ rộng cỡ 3 bộ vuông (theo truyền thống Tây Tạng, các vị tu sĩ đều tọa thiền trong một cái hộp gỗ như vậy). Cô không bao giò ngủ nằm. Mục đích của Tenzin Palmo là chứng đạo trong hình tướng một người nữ.
18/03/2015(Xem: 6302)
Tôi sinh ra ở miền sông nước Nam Bộ của xứ Việt. Nhưng thật lạ, phải gần nửa đời tôi mới bắt đầu nhận ra mình vốn yêu sông nước. Tôi yêu quê từ những miền đất lạ mà mình đi qua, và tệ nhất khi đôi lúc chỉ là những nơi chốn xa ngái mịt mù chỉ nhìn thấy trong sách vở, phim ảnh. Và kỳ chưa, đó cũng là cách tôi yêu đạo Phật. Ăn cơm chùa từ bé, nhưng phải đợi đến những giây khắc nghiệt ngã, khốc liệt nhất bình sinh, tôi mới nhìn thấy được rõ ràng nụ cười vô lượng của đức Phật bất chợt hiện lên đâu đó cuối trời thống lụy.
05/03/2015(Xem: 3208)
Có những kỷ niệm tưởng rằng sẽ mờ nhạt theo tháng ngày tất tả, trôi xuôi đến tận cùng triền dốc của cơm áo xứ người. Nhưng không, mỗi khi trời đất đổi mùa thì lòng người lại bâng khuâng, ký ức lại hiện về rõ nét, dù đó là một khoảng thời gian đã qua, một ký ức đã xa... Chỉ còn lại trong tim nhưng cũng đủ xót xa lòng khi nhớ đến! Hình ảnh bà cụ già nua ốm yếu, ngồi cô đơn trong căn chòi tranh rách nát, vào một buổi chiều âm u buồn thảm vẫn còn đậm nét trong lòng tôi, nhớ đến là bồi hồi xao xuyến cả tâm can. Buổi chiều ở Đồng tháp Mười buồn quá sức, buồn đến não nuột xót xa, một chòi tranh nằm chơ vơ bên con lạch nước đục ngầu, không người qua lại, xung quanh chỉ có tiếng ếch nhái than van!
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]