Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

09. Hai Cha Con

28/08/201117:10(Xem: 2695)
09. Hai Cha Con

Diệu Nga
DỐC MƠ ĐỒI MỘNG
Tu Viện Trúc Lâm Canada Xuất Bản PL. 2547 DL. 2003

Hai Cha Con

Ông Hai Nghĩa làm việc ở nhà ga xe lửa gần hai mươi năm nay; đã từng chứng kiến không biết bao nhiêu cảnh chia tay cũng như đoàn tụ cho nên đối với ông, đó là chuyện thường. Hợp tan, vui buồn, cười khóc cứ thay phiên nhau diễn ra tạo cho đời sống bộ mặt linh động, muôn màu muôn vẻ.
Nhưng hôm nay, sau khi đưa tiễn đứa con trai độc nhất rời khỏi tỉnh lỵ nhỏ bé của tiểu bang Alabama này, đến khi trở về nhà, ông mới thấm thía nỗi sầu biệt ly.
Cái buồn xâm lấn ông từ từ, nó lan nhè nhẹ nhưng bàn tay thô bạo của nó cứ như nắm cả buồng tim của ông mà rứt ra. Đau nhói. Đôi khi ông có cảm tưởng như nghẹt thở, tay chân rã rời… Ông nằm im lìm trên ghế sofa không biết bao lâu.
Trời nóng quá, dù mùa hè chỉ mới bắt đầu bằng những ngày 80 độ F. Ông uể oải đứng dậy pha một ly trà đá. Ở Mỹ có loại “ice tea” chỉ cần dăm ba phút, đã có món giải khát vừa rẻ vừa ngon.
Ông sớt một nửa để lên bàn thờ vợ. “Bả cũng ưa thứ này.” Ông nhìn ảnh vợ một cách trìu mến rồi cầm nửa ly còn lại, mở cửa bước ra sân sau.
Sân nhà ông tuy nhỏ nhưng trông cũng nên thơ với hai cây thông già xanh tốt quanh năm. Cỏ được cắt xén bằng phẳng, tưới tẩm cẩn thận nên vẫn giữ được màu xanh mát mắt quanh những bồn hoa chậu kiểng thay nhau khoe sắc đủ bốn mùa.
Trời đã xế bóng nên không khí dễ chịu lại. Ông ngồi xuống tảng đá lớn dưới cội cây thông, hớp từng ngụm nước mát lạnh và cảm thấy tỉnh mỉnh hơn. “Con mình tốt nghiệp rồi, phải đi kiếm việc làm, đâu ở quanh quẩn xó nhà hoài được!”
Hình ảnh đứa con trai xúng xính trong áo thụng, đầu đội mũ vuông đen trong ngày lễ ra trường hôm qua hiện rõ trong trí nhớ và nỗi vui sướng bỗng trở lại với ông, đầy ấp cả buồng tim, lá phổi.
“Bà nó ơi! – ông nói thầm với người vợ quá cố - Bà không sống mà nhìn con, giờ cũng kỹ sư như ai! Vợ chồng mình tuy hèn mọn thiệt đó nhưng con mình giờ đã nên người. Bà phải khen tui đó nghen! Gà trống nuôi con mười lăm năm ròng trong cảnh nghèo khó mà con vẫn nên người!”
Từ hồi sang Mỹ đến giờ, gia đình ông ở miết tại tỉnh lỵ nhỏ bé này, không muốn dọn đi đâu vì cả hai vợ chồng may mắn tìm được việc làm tại nhà ga xe lửa Amtrak ở địa phương. Đồng lương “cu li” tuy chẳng là bao nhưng hai đầu lương góp lại, sống tiện tặn, họ cũng mua được căn nhà nhỏ, cũ bốn mươi năm, già bằng tuổi họ.
Căn nhà tuy nhỏ nhoi, cũ kỹ nhưng vợ chồng đẹp dạ lắm vì dù sao cũng được làm chủ bất động sản này, sau ba mươi năm trả góp. Họ cảm thấy như mình đã bám rề được trên vùng đất mới quá xa lạ.
Những người Việt đến sau đều khen vợ chồng ông tốt số: tiếng Anh tiếng u không có một chữ vậy mà cả hai đều được vô làm hãng lớn của Mỹ, có bảo hiểm sức khỏe và đủ quyền lợi về hưu bổng.
Thật ra thì hay chẳng bằng hên. Khoảng năm 1978, người Việt mình sang Mỹ chưa đông; những công việc lao động tay chân như lau chùi, quét dọn v.v… nhiều lắm vì Mỹ trắng thì chê còn Mỹ đen vào làm một thời gian ngắn rồi bỏ.
Nhờ quen với cô thư ký người Việt làm trong hãng, ông được giới thiệu vào làm. Họ ngần ngại chưa muốn nhận ông thì cô thư ký hứa sẽ thông dịch và hướng dẫn cho đến khi nào ông quen việc. Vài tháng sau, thấy được, ông xin cho vợ vào làm luôn. Họ nào mong mỏi gì hơn một cuộc sống bình dị, yên ổn và tự do!
Đứa con trai duy nhất của hai người – Hòa – lúc bấy giờ tuy đã 
mười hai tuổi nhưng vì chẳng biết tiếng Anh, phải học lại tiểu học. Hòa không lấy thế làm buồn vì dáng dấp nhỏ thó của cậu cũng không khác gì đứa trẻ Mỹ sáu, bảy tuổi.
Hòa thuộc loại chậm lụt, không thông minh lanh lợi gì nên học hành rất vất vả. Cũng may, nó được cái siêng năng, chịu khó; nếu không thì chẳng thể vào đại học nỗi. Ở đấy, anh phải “trầy vi tróc vảy” trong bảy năm mới lãnh được mảnh bằng mà một sinh viên khác chỉ cần bốn năm thôi. Anh ra trường lúc tuổi đã ngoài ba mươi.
“Tam thập nhi lập!” Ông Hai Nghĩa lẩm bẩm một câu chữ nho. “Tuổi này bắt đầu lập nghiệp cũng chưa muộn.”
- Anh Hai khỏe rồi hả! Ngồi uống trà coi thảnh thơi dữ a!
Bà hàng xóm vừa đon đả bước tới vừa cất giọng đả đớt cố hữu của bà.
- Chào chị Phụng, chị tới hồi nào tui không hay!
Anh ỷ y không khóa cửa, bữa nào đồ đạc trong nhà anh bị dọn hết cho coi!
- Ờ, cái tật đó thằng Hòa cự tui hoài! 
Bà Phụng ngồi phệt xuống cái băng dài bằng gỗ sồi do ông tự đóng cả chục năm về trước. Cái băng ghế này giờ đã ọp ẹp, tồi tàn không khác gì người đàn bà luống tuổi đang ngồi trên ấy.
Bà ta mở giỏ têm trầu. “Bà nầy kỳ cục, qua Mỹ lại tập ăn trầu! Mới năm mươi tuổi mà làm như già sụm!” Ông Hai nói thầm trong bụng, ngán ngẩm nhìn cái đầu tóc chôm bôm xám xịt và hai răng cửa trống trơn như miệng hang. Người tuy ú nu nhưng da dẻ lại xanh mét như bịnh kinh niên. Bà con cô bác ở đây rỉ tai nhau: “Mụ Phụng giả bộ già yếu bịnh hoạn để ăn tiền welfare.” Từ ngày đứa con lai duy nhất bỏ bả trơ trọi chốn này, bà trở nên dở dở ương ương không ai chịu nổi; chỉ có ông còn giao thiệp nên hóa thành bạn thân.
Nhưng thằng Hòa ghét bả lắm, nói bả “dê” ông già mình để lợi dụng. Ông chỉ cười, biện hộ “tao có đách gì đâu mà sợ bị lợi dụng! Nghèo cũng sướng cái vụ đó!”
Thật ra ông thương cảnh tình cô đơn của người đàn bà lỡ vận này. Nơi đất khách quê người gặp cảnh ngộ như bà, nếu không điên thì hóa dại thôi. Gia tài chỉ có hai mẹ con, theo diện con lai sang Mỹ mới ba tháng, con Lụa gạt mẹ nó, nói phải đi tiểu bang khác kiếm việc làm ăn, rồi bẵng luôn, không thư từ liên lạc gì hết. Có người tình cờ gặp lại nó ở Cali mấy năm sau đó, ăn mặc diêm dúa phấn son lòe loẹt đến nỗi nhìn không muốn ra. Mà nó cũng không thèm nhìn ai, sợ người ta nhắc đến bà già đã sinh ra nó.
Hai người bạn ngồi im lặng khá lâu. Bóng chiều chầm chập trải lên sân mang theo vài cơn gió mát. Bà Phụng nhóc nhách nhai trầu, bỗng nhiên buột miệng nói:
- Lạy trời cho con trai ông đừng đoản hậu vô nghì như con Lụa nhà tôi! 
Ông Hai Nghĩa nhếch môi cười, không đáp. Thằng Hòa kỹ sư của ông mà bà “khùng” này dám đem so sánh với con Lụa! Nhưng dù sao ông cũng thầm cám ơn lòng tốt của bà.

***

Sau những giấc ngủ gà ngủ gật đêm rồi ngày, hết ngày lại đêm trên xe lửa, Hòa thức dậy lúc vừa rạng đông. Mặt trời còn ẩn trong cánh rừng thưa đang chạy thụt lùi ra sau nhưng những đợt nắng mới, vàng rực ở chân trời, đang tủa ra, xé tan lớp sương mù lãng đãng.
Mặc dù chỗ ngồi thoải mái rộng rãi như một cái giường nhỏ - đối với khổ người của Hòa – nhưng hai chân anh tê cóng. Hòa nhè nhẹ đứng dậy, co duỗi chân tay rồi đi vào khu nhà ăn toa trên. Đa số hành khách đều còn ngủ.
Ly cà phê nóng với cái bánh donut giúp anh tỉnh táo. Hòa móc túi lấy giấy xem lại ngày giờ tàu đến nơi: chỉ còn nửa tiếng là tới ranh giới tiểu bang Ohio, từ trạm biên giới này, tàu chạy suốt hai tiếng nữa mới vào thành phố chính.
Bên ngoài, cảnh vật từ từ sáng tỏ hơn. Hòa có cảm giác đời mình cũng bắt đầu một giai đoạn mới, tươi sáng nhộn nhịp hơn những tháng năm buồn tẻ, đìu hiu ở thành phố cũ. Chàng như đã thoát ra khỏi cái kén tù túng, quê mùa, hóa thành chú bướm có đôi cánh bay bổng, cao vời.
Tuy nhiên, mặc cảm sợ hãi, thua sút luôn luôn kèm sát những hi vọng vươn lên của Hòa. Không biết rồi đây có hãng nào nhận mình không với điểm trung bình hạng C. Ohio là tiểu bang đang lên. Các hãng mời nhiều người bạn cùng lớp của anh đi phỏng vấn nhưng họ đều chê xa và lạnh, còn anh gửi đơn đi cùng khắp mà chẳng ai gọi. Vì vậy Hòa đánh bạo đến tận nơi này để tìm việc. Kỹ sư công nghiệp mà, đâu đến nỗi tệ.
Tội nghiệp ông Hai Nghĩa, trước ngày anh đi, ông vét hết tiền ở trương mục tiết kiệm trao cho anh ba ngàn đồng, bảo là để phòng thân. Hòa cũng cần tiền thật đó, vì không biết bao lâu mới kiếm được việc làm, định lấy phân nửa thôi, nhưng nhớ lại mụ Phụng hay lui tới la cà, nếu anh không giữ hết thì chắc bà ta cũng tìm cách bòn rút. Chẳng biết tại sao anh ghét mụ ta một cách lạ kỳ. Chắc tại anh ghen giùm má anh dù bà quá vãng đã lâu rồi.
Má anh là người mẹ hoàn toàn, chìu anh hết mực, xin gì được nấy. Duy chỉ có một điều làm anh không hài lòng, là anh giống má anh như đúc: từ thân người ốm yếu nhỏ nhoi đến gương mặt khắc khổ, xương xẩu trên đó ít ai thấy được nụ cười. Lại thêm hai vai ngang như đòn gánh! Tướng anh như vậy đó, làm sao sang được? Vì vậy anh khó tìm một cô bạn gái dù ở Alabama lúc sau này, người Việt không hiếm.
Ba anh thì cao ráo, khỏe mạnh hơn nhưng trông thô kệch với gương mặt vuông chèn bẹt và tướng đi chữ bát.
Không ai có thể chọn cho mình một chỗ để sinh ra. Nếu được lựa chọn, chắc chắn anh đã không ra đời trong ngôi nhà của cha mẹ anh. Nhưng dù sao, ba anh cũng dễ thương. Ông coi anh là lẽ sống, là niềm hãnh diện tột cùng. Ngoài ba anh ra, anh không là gì cả dưới mắt người chung quanh.
Là “thần tượng” của cha mình nên Hòa chủ động mọi sự. Anh nói gì ông cũng vui vẻ nghe theo như một người thừa hành tốt. Đôi khi anh bịa chuyện lếu láo để thỏa mãn lòng tự tôn lẫn mặc cảm tự ti rất phức tạp trong tâm lý của mình, ông Hai cũng một lòng tin tưởng, không thắc mắc lôi thôi gì…
Khi hành khách kéo vào câu lạc bộ khá đông, Hòa đứng lên, mua tờ báo rồi trở về toa. Ông bạn ngồi ghế đối diện vẫn còn che mặt ngủ.
Hòa mở rộng tờ báo, xem kỹ mục cần người: nhiều hãng xưởng ở đây cần kỹ sư, cán sự công nghiệp. Anh an tâm, nhắm mắt lại ngủ tiếp với giấc mơ sẽ có việc làm tốt, tậu căn nhà và cưới được một cô vợ xinh xinh…
Xe lửa giảm tốc độ dần dần. Thành phố hiện ra trước mặt. Sống ở Mỹ lâu năm, lại có dịp đi đây đi đó trong các kỳ nghỉ hè, Hòa không bỡ ngỡ chi khi đến một tiểu bang mới. Một phần cũng vì kiến trúc đô thị ở Mỹ tại các nơi không khác nhau mấy và ở đâu người ta cũng thấy tiệm McDonald’s với hình chú hề và chữ M màu vàng thật to dựng trên nóc. Đó là quán ăn bình dân quen thuộc của mọi người và của Hòa trong những ngày sắp tới nếu anh không tìm được khu vực Việt Nam hay Á Châu tại đây.
Sau khi lo chỗ tạm trú, Hòa gửi đơn xin việc ngay hôm sau. Anh rải gần bốn mươi tờ “resume” mà đợi mãi đến hai tuần sau mới có một hãng gọi anh tới để phỏng vấn. Hãng này thuộc loại nhỏ, chuyên sản xuất đồ dùng bằng nhựa. Họ trả lương nhân viên thấp nên hay chọn những đối tượng như Hòa. Họ mướn Hòa như một cán sự và hứa sẽ cho lên kỹ sư khi nào hãng có nhu cầu.
Tuy thất vọng nhưng không có cơ hội nào khác, anh đành nhận việc. Dĩ nhiên Hòa báo cáo với ông già không đúng như thật. Anh vẽ vời, đánh bóng mọi sự làm ba anh thêm hãnh diện; điều đó thỏa mãn “cái tôi” của Hòa lắm.
Một năm say, anh sung sướng có được cô gạn gái, là nhân viên mới của hãng. Cô Hường tuy ở Việt Nam mới sang và luống tuổi rồi nhưng sắc vóc xinh xắn lại xuất thân từ gia đình sĩ quan cũ, có bề thế, tên tuổi. Hòa cưng chìu cô lắm, còn cô thì không nói ra nhưng định bụng chỉ ưng Hòa khi nào anh thực thụ là kỹ sư. Cô thuộc loại người cứng cỏi, sống bằng lý trí.
Từ ngày có bạn gái, Hòa như quên hẳn người cha già cô đơn ở tỉnh lẻ. Thỉnh thoảng ông nhớ con, gọi điện thoại tìm để được biết con mình vẫn bình yên; còn anh thì bận rộn lắm, chỉ có thì giờ gửi cho ông tấm thiệp mừng ngày Father’s Day với chữ ký vội vàng dưới hàng chữ in sẵn.
Đôi khi, lương tâm chổi dậy, anh ý thức được rằng mình là đứa con vô tình nhưng anh tự trấn an ngay vì biết cha lúc nào cũng rộng lượng, xuề xòa, không chấp nhất chi… Anh sợ liên lạc mật thiết với ông, ông sẽ đòi dọn về ở chung vì có đôi lần vui miệng anh đã hứa “khi nào ba hưu trí, con rước ba qua đây ở luôn.”
Đối với anh, đó chỉ là lời nói có tính cánh đẩy đưa; biết ông hằng mong mỏi như vậy nên nói cho ông vui thôi. Cho ăn bánh vẽ thì bao nhiêu chả được! Rước ông về ở chung, chắc chắn cô bạn gái sẽ không bằng lòng. Cô ấy mà bỏ anh, chắc anh chết! Lỡ phịa rằng ba anh cũng vốn dòng trí thức phong lưu, rủi cô ấy biết rõ lai lịch từ “binh nhì” ở Việt Nam đến “lao công quét dọn” ở Mỹ thì có nước độn thổ.
Đôi khi, thành thật với chính mình, Hòa biết mình đã trở thành kẻ láo khoét, thích “nổ” và hay khoe khoang nhưng anh không thấy thế làm xấu hổ. Anh đã quen khoác cho mình lớp sơn hào nhoáng và tự hài lòng với những gì mình đã vẽ vời ra.

***

Trằn trọc suốt đêm, ông Hai Nghĩa không ngủ được một phút giây ngắn ngủi nào. Nỗi đau, cái giận, sự chua xót xen lẫn lòng hối tiếc đã hòa trộn vào nhau, dày xé cả tâm tư, dằn vặt ông không dứt.
Thằng Hòa lại cho ông “ăn thịt thỏ”. Nó hứa cuội với ông trong ngày quan trọng nhất của tuổi già; ngày về hưu. Bà con, bạn bè, lối xóm, đồng nghiệp, ai cũng dành thì giờ đến dự buổi tiệc thân mật này, còn đứa con độc nhất của ông, núm ruột yêu dấu của ông thì biệt dạng.
Đa số người thân thiết rõ cảnh tình đáng thương của ông, đã tế nhị, không đá động, hỏi han về Hòa nhưng đôi người cũng vô tình buột miệng:
- Kỹ sư Hòa đâu? Lâu quá chẳng thấy về Alabama.
- Ờ, cũng bảy hay tám năm rồi!
- Ngày này lẽ ra cậu ấy phải về để tính công chuyện cho ba chớ! Già cả rồi, ở một mình đâu nên!
Họ thương ông mà nói vậy chứ không ác ý, nhưng những câu nói ấy như những mũi tên xuyên xuốt qua trái tim người cha đau khổ.
Cả tháng vừa qua, ông hăng hái sơn phết,dọn dẹp nhà cửa với ý nghĩ khi con mình về thắm, nó sẽ không xấu hổ vì căn nhà bây giờ đã quá cũ kỹ: một bên vách, cây đã mục; thảm ở phòng khách từ màu xám tro đã ngã thành đen, bẹp dí xuống, cứng đơ như miếng ni-lông dầy. Cửa nẻo đều trở nên ọp ẹp, lỏng lẻo.
Trong dịp này, bà Phụng đã đến giúp ông hằng ngày. Bà biết ông phấn khởi lắm, hi vọng sẽ được gặp con. Có lần bà ướm hỏi:
- Ông chắc cậu về không?
Mặc dầu hơi chột dạ - vì bây giờ ông không dám cả tin vào bất cứ lời nói nào của đứa con yêu quí – nhưng ông cũng mạnh dạn đáp:
- Về chớ! Tôi đòi gởi vé xe lửa miễn phí, nó không chịu, nó đi máy bay mau hơn.
- Chừng nào có chuyến bay, có giờ tới mới chắc! 
Ông Hai chép miệng:
- Nhiều lần tôi muốn lên thăm nó, nó không cho, nói già cả ngồi xem lửa mất sức. Kỳ này nó lấy phép về chơi, ở lại vài tuần.
Bà Phụng xây mặt, dấu cái trề môi. Người ngoài ai cũng biết Hòa là đứa con đoản hậu – cũng như con Lụa của bà vậy, nhưng đóng kịch khéo hơn - chỉ có ông vì quá thương con nên không thấy sự thật. Kỳ nầy cho ông sáng mắt ra. Sáng mắt rồi, ông chỉ khổ một lần chót thôi chớ không còn khổ dài dài vì phải ăn bánh vẽ của Hòa nữa.
Không phải bà ghét chi Hòa – nó mắt mớ gì tới bà mà ghét – nhưng tức giùm ông Hai Nghĩa quá chừng… Mà lần nầy ổng “canh me” để được nói chuyện thẳng với nó qua phone là may. Thông thường, chỉ có máy trả lời, dù nhắn năm điều bảy chuyện trong máy, nó cũng không bao giờ gọi lại… Rõ ràng như vậy mà Ông Hai cũng chưa chịu hiểu!
… Sau trắng đêm suy nghĩ, bây giờ ông Hai mới thấy được tâm địa của con mình. Ông đau lòng quá, không phải vì sợ tuổi già của mình vò võ cô đơn nhưng vì không ngờ đứa con mà mình đã dày công đào tạo, đã đặt trọn niềm tin tưởng và hãnh diện lại thấp thỏi đến như vậy.
Thà nó đừng làm kỹ sư bác sĩ, nó cứ nối nghiệp lao công như ông mà biết đạo làm người, biết nghĩa làm con thì ông hả dạ hơn. Giá trị con người đâu phải ở bằng cấp địa vị hay sự sang giàu!
Ông Hai đi tới đi lui ngoài sân sau, càng nghĩ ngợi càng đau lòng… Cho đến khi mặt trời đã lên cao, thấy nóng, ông vừa định trở vào nhà thì nghe tiếng bà Phụng đập cửa rầm rầm, miệng kêu ơi ới…
- Anh Hai, mở cửa! mở cửa cho tôi vô!
Chủ nhà vừa hé cửa, bà Phụng đã nhào tới. Cùng lúc đó, ông nhận ra sự hiện diện của bác Vinh, hội trưởng cao niên.
Bà Phụng để tay lên ngực, thở cái phào:
- Vậy mà tôi hết hồn! Tưởng ông buồn tình tự vận rồi chớ!
Ông Vinh điềm tĩnh, từ tốn hơn, tiến tới bắt tay ông Hai Nghĩa rồi chậm rài bước vào nhà. Sau khi phân ngôi chủ khách, ông Vinh giải thích:
- Hồi sáng này lúc tôi còn ngủ, bà bạn đây tới, thức tôi dậy, báo tin anh đã tự tử. Tôi hỏi “sao chị biết?”. Chị nói đã đập cửa nhà anh rầm rầm cả chục lần mà không có tiếng ai trả lời. Bán tín bán nghi, tôi cấp tốc đến đây xem sự thể ra sao?
Người cha đau khổ nhếch môi cười gượng gạo. Ông liếc bà Phụng một cái bén ngót làm bà xấu hổ bỏ vào trong, nói là đi pha cà phê.
Bắt được cái cười của ông Hai Nghĩa, người bạn biết đây là cơ hội tốt để tháo gút tâm sự:
- Từng tuổi này, tôi mới nghiệm ra rằng mình chỉ nên sống với thực tại.Chấp nhận thực tế, dù nó không đúng với sự mong cầu của mình, mình sẽ đỡ khổ lắm anh à! Vợ chồng tôi có đến bốn đứa con, hai trai hai gái nhưng tới lúc bạc đầu cũng không sống chung với đứa nào được. Mà sống riêng cũng có cái hay, mình độc lập mà chúng nó thì được tự do.
Ông Hai vuốt tóc - chắc đầu tóc mình bồm xồm khó coi, khách tới bất thình lình quá. Ông im lìm một lúc rồi nói như than:
- Thì sự thể đã rõ ràng như vậy, không chấp nhận cũng không được. Sanh con nào dễ sanh lòng!
Hiểu nỗi đau của bạn, ông Vinh tìm cách an ủi:
- Thôi, thì dù sao đi nữa, con hơn cha là nhà có phúc anh à! Bây giờ anh không cần phải lo lắng, đùm bọc, che chở cho cậu ấy nữa. Con chim trời khi đủ lông đủ cánh, cứ thả cho nó bay… Mình nghĩ vậy mà khỏe, khỏi bận lòng.
Ông Nghĩa hít sâu một hơi thở để làm dịu cơn xúc động rồi trầm ngâm. Tiếng đồng hồ “tích tắc”, “tích tắc” gợi ông nhớ lại những đêm khó ngủ, những đêm dài thăm thẳm, triền miên với bao phiền muộn, thất vọng và ngán ngẩm.
- Thú thiệt với anh nghen, tôi vốn quê mùa dốt nát, nuôi được đứa con ăn học thành tài thì mình hành diện ghê lắm nhưng mà xét cho kỹ, đó không phải là cái phúc của gia đình tôi. Phải nói đây là điều bất hạnh. Nhưng dù sao tôi cũng tha thứ cho nó. Sau này, nếu nó hoạn nạn, ốm đau, thất bại hay gì gì đi nữa, tôi cũng sẵn lòng thương…
- Tôi hiểu! Mình là cha mà, dù chúng nên hay hư, giỏi hay dở, thành công hay thất bại mình cũng cứ thương thôi. Sông còn có lúc nước lớn nước ròng chứ cha mẹ thương con bao giờ cũng thế, tràn ngập, phủ phê…
- Mà thôi, mình không biết thực tế cuộc sống của cậu ấy ra sao, cứ ngồi đây mà trách, có khi cũng oan!
Không cầm được giòng nước mắt thương cảm, ông Hai lặng lẽ khóc: “Ông Vinh đã thấy được nỗi lo thầm kín của mình, người bạn này sâu sắc, tế nhị mà lại bao dung, không bao giờ phê phán, xét nét ai.”
Ông Vinh tôn trọng sự xúc động của bạn, đứng lên nhìn ra cửa sổ. Nắng buổi trưa sáng rực cả con đường nhựa thẳng tắp, hàng cây dogwood trổ hoa hồng nhạt làm dịu lại bầu không khí nóng nực của mùa hè. Ở Mỹ, người về hưu còn khỏe lắm, lại còn một thời gian dài trước mặt, nếu không khéo sử dụng, cuộc sống sẽ trở nên vô vị, nhạt phèo.
Mùi cà phê thơm ngát báo hiệu sự hiện diện của bà Phụng. Cái miệng “bép xép” của bà nảy giờ phải khép lại trong nhà bếp khiến bà khó chịu nên vừa bưng khay cà phê vào, bà nói liền:
- Giận thì khổ, không giận thì lỗ!
Trở lại ghế ngồi, ông Vinh cười, buông câu đùa:
- Nhưng “giận thì giận, mà thương thì thương!”
Hai người đàn ông trao nhau cái nhìn thông cảm. Ông Hai Nghĩa có dịp nhìn ngắm người bạn gái vui tính và bộc trực của ông: bà ta đã trồng hai cái răng cửa, tóc tai vén khéo, da mặt không còn bủng beo tái ngắt như xưa. Lúc sau này, bà hoạt động tích cực cho hội cao niên, hay đi chùa làm công quả, bà tìm được lẽ sống và nguồn hạnh phúc yêu đời. Bà không còn cay cú khi có ai vô tình nhắc đến con Lụa.
Ông Nghĩa biết rằng ông cũng có cơ hội để sống vui, ông sẽ nhờ Vinh hướng dẫn đi chùa, học giáo lý, tụng kinh niệm Phật; tâm hồn ông sẽ bớt khổ đau, phiền muộn. Con đường đầy hoa bưởi, hoa cam dẫn đến ngôi chùa làng ở quê nhà như hiện ra trước mắt. Ông bỗng nhớ quá ao sen trước sân chùa rợp sắc hồng, ngào ngạt hương thơm vào mùa hạ và bóng áo nâu của sư ông thật dịu hiền…
… Tối hôm đó, sau khi dùng cơm ở nhà Vinh về, ông đang chuẩn bị đi ngủ thì có tiếng điện thoại reo vang. Dù cố gắng bình tỉnh, tay ông vẫn run lên khi nghe tiếng Hòa ở đâu bên kia.
- Ba tha lỗi cho con!
- Ờ! … con có gì khó khăn cứ nói di.
- Con hay nói dối ba, lần này con phải thưa thật!
- Chuyện gì đó con?
- Con ra đời không thành công như mình mong ước… lương đã thấp mà bị thất nghiệp hoài… có cô bạn gái, mình cưng chìu hết sức, rốt cuộc cũng không thành.
- Không sao, từ từ rồi con gặp người khác.
- Con lỡ có con với… với Mỹ đen rồi ba à!
- !!! (Đành im lặng, ông biết nói gì đây?)
- Ba còn nghe con không?... Bị thất tình, buồn quá, con vơ đại cô đó, ở ngay phòng bên cạnh, ai dè…
Ông Hai Nghĩa cố dấu tiếng thở dài:
- Thôi, dù sao cũng là máu mủ của mình, đừng bỏ người ta mang tội, con à.
- Bây giờ con đang thất nghiệp, còn nó sanh rồi không ai giữ con, tiền gửi nhà trẻ mắc quá…
Quyết định đến thật nhanh, không đắn đo suy nghĩ ông Hai sốt sắng:
- Tụi bây dọn về đây ở chung với tao nè, tiền nhà khỏi tốn, đỡ lo. Tao giữ cháu nội cho hai đứa đi làm.
- Con cám ơn ba. Lúc nào ba cũng thương yêu, lo lắng cho con mà con thì chưa làm được gì để đền đáp. Con hứa từ nay…
Ông Hai chận lời:
- Ba chỉ cần con hứa từ nay phải sống thành thật với chính mình và với người chung quanh. Đừng ngụy tạo, đừng vẽ vời. Tốt gỗ hơn tốt nước sơn, con à.
Giọng của Hòa trở nên ngập ngừng:
- Con xấu hổ, con ăn năn… con xin chừa!
- Ờ thôi, chuyện cũ bỏ qua hết đi con. Mà cháu nội của tao là trai hay gái vậy?
- Dạ con trai, nó bự lắm ba à, hồi mới sanh đã 9 pounds, bây giờ chưa tròn ba tháng đã 15 pounds rồi.
Ông Hai nói thầm: “Lại một lần nữa, con hơn cha là nhà có phúc!”
- Con đặt tên nó là Michael. Hi vọng sau này lớn lên, nói chơi bóng rổ giỏi như Michael Jordan vậy!
- Thôi con ơi, đừng mơ mộng viển vông nữa, sống với thực tế là hơn! Thực tế là, tao nhận giữ cháu ngày thường thôi. Thứ bảy tao sinh hoạt hội cao niên, chủ nhật tao đi chùa.
Hòa nghĩ trong bụng: “ông già bây giờ có uy quá, tự nhiên mình thấy khớp!” Rồi anh vui vẻ hứa:
- Dạ, con đâu dám đòi hỏi gì hơn. Ba giúp con đúng lúc quá! Tụi con thu xếp, tuần sau đi xe lửa về.
- Tao còn sẵn hai vé miễn phí nè, để tao gởi lên cho. Thôi khuya rồi, tao đi ngủ đây. Bye!
Bỗng nhiên trời đổ xuống một trận mưa rào. Tiếng mưa ban đầu còn thưa thớt, về sau trút xuống ào ào không ngớt. Mưa làm tan bầu không khí oi bức, nồng nực ở chung quanh. Ông Hai nằm im nghe sự mát mẻ của đất trời đang hòa lẫn với niềm vui lớn lao đang làm tươi lại trái tim khô héo của mình từ bấy lâu nay…

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/02/2015(Xem: 4679)
Một trong tôn giáo cổ xưa Có thầy tu nọ rất ưa tế thần Tuy ông nổi tiếng xa gần Nhưng mà mê muội tâm thần nhiều thay. Một hôm ông chọn dê này Cho rằng thích hợp, giết ngay tế thần Nghĩ suy lầm lạc vô ngần:
25/01/2015(Xem: 6600)
Tác phẩm Một Đóa Sen, được diễn nói về vận hành tầm sư học đạo của Sư bà Thích Nữ Diệu Từ, thật là gian truân trăm bề, được thấy từ khi mới vào “Thiền Môn Ni Tự” ở các cấp Khu Ô Sa Di, Hình Đồng Sa Di, ứng Pháp Sa Di và Tỳ Kheo Ni ở tuổi thanh niên mười (10) hạ lạp rồi, mà vẫn còn gian nan trên bước đường hành hoạt đạo Pháp. Nhưng Sư bà vẫn định tâm, nhẫn nhục , tinh tấn Ba la mật mà tiến bước lên ngôi vị Tăng Tài PGVN ở hai lãnh vực văn hóa quốc gia và Phật Giáo Việt Nam một cách khoa bảng. Nếu không nói rằng; tác phẩm “Một Đóa Sen và Pháp thân” của Sư bà Diệu Từ, là cái gương soi cho giới Ni PGVN VN hiện tại và hậu lai noi theo…
24/01/2015(Xem: 4838)
Mỗi sáng sớm khi sương còn mù mịt trên sông, chiếc thuyền con của lão già đã là đà rẽ nước, hướng về bờ – lúc thì bờ đông, lúc thì bờ tây, nơi những ngôi nhà tranh và những chiếc ghe nhỏ tụ tập. Mái chèo khua nhè nhẹ như thể sợ động giấc ngủ của thế nhân. Chẳng ai biết chắc lão có gia đình, nhà cửa ở đâu hay không. Nhưng người ta có thể đoán chiếc thuyền con ấy chính là nhà của lão, vì lão phơi thuốc, xắc thuốc, nấu thuốc ngay trên đó. Trên thuyền không còn ai khác. Ban đêm, thuyền của lão neo ở đâu không ai biết, nhưng sáng sớm thì thấy lù lù xuất hiện trên sông hoặc nơi bờ cát. Lão già đến và đi, một mình. Mỗi ngày xách cái túi nhỏ rời thuyền, thường là đi hái thuốc trên núi, ven rừng, bờ suối, có khi vào làng chữa bệnh cho bá tánh rồi ghé chợ mua vài thứ lĩnh kĩnh.
21/01/2015(Xem: 10087)
1. Chân như đạo Phật rất mầu Tâm trung chữ Hiếu niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân Nhân là cứu độ trầm luân muôn loài. 5. Thần thông nghìn mắt nghìn tay Cũng trong một điểm linh đài hóa ra,
16/01/2015(Xem: 3621)
Sau 30-4-75, tất cả giáo chức chúng tôi đều phải đi học tập chính trị trong suốt 3 tháng hè mà họ gọi nôm na là "bồi dưỡng nghiệp vụ". Một buổi chiều sau mấy ngày "bồi dưỡng", tôi đạp xe lang thang qua vùng Trương minh Giảng, tình cờ gặp Báu - một người học trò năm xưa, rất xưa, đang ngơ ngẩn đứng trước cửa nhà. Dừng xe đạp, tôi chào: - Báu hả? Phải em là Trương thị Báu không? Có nhớ ra cô không? Báu giương mắt nhìn tôi, nhìn đi nhìn lại rồi nghiêng đầu lại nhìn...Em không nhớ nổi... Tôi đã thoáng thấy được một tâm thần bất thường qua thần sắc cũng như qua đôi mắt trống rỗng vô hồn!
16/01/2015(Xem: 4822)
Năm 1954 ông Thiện khăn gói đùm đề đưa mẹ, vợ và hai đứa con gái xuống con tàu há mồm vào Nam.Trên bờ, Thụ, người em trai của ông còn đưa tay vẫy vẫy. Đêm hôm qua, ông và người em trai bàn rất nhiều về chuyến ra đi này.Người em nói: - Đất nước đã hòa bình, độc lập, anh nên ở lại, dù gì cũng là nơi chôn nhau cắt rốn.Vào Nam xứ lạ quê người, chân ướt chân ráo trăm bề khổ sở... Ông Thiện đã trả lời em:
15/01/2015(Xem: 5053)
Trong cả thành phố này, anh chị chỉ có tôi là chỗ thân nhất, vừa là thầy vừa là bạn. Buổi sáng anh gọi phone bảo trưa nay đến đón tôi về nhà dùng cơm cho vui. Hôm nay là sinh nhật của thằng Alexander con một của anh chị.
14/01/2015(Xem: 7516)
Tiếng Hồng chung Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang nói riêng và các chùa trong thành phố Nha trang nói chung, sớm khuya ai cũng có thể nghe được, nhưng nghe để “Trí tuệ lớn” và “Bồ-đề sinh” thì tùy theo “phiền não” của đối tượng nghe có vơi nhẹ hay không? Riêng với nhà văn Võ Hồng, qua tác phẩm “Tiếng chuông triêu mộ” cho thấy Trí tuệ và Bồ đề của ông sanh trưởng tốt. Nhưng nhân duyên như thế cũng chưa đủ, ông là giáo sư của PHV, của trường Bồ Đề, là thiện tri thức của các bậc cao Tăng ở đồi Đông và đồi Tây non Trại Thủy. Có thế mới có truyện ngắn “Cây khế lưng đồi”, có tùy bút “Con đường thanh tịnh”. Thưa thầy Võ Hồng, chừng ấy đủ rồi, đủ cho PHV đi vào lịch sử văn học, đủ cho 100 năm sau, 1000 năm sau hay nhiều hơn thế nữa, nhìn thấy PHV uy nghi như một Linh Thứu thời Phật và cũng cho thấy các bậc cao Tăng Miền Trung nói riêng xứng đáng là những Sứ giả Như Lai đầy trách nhiệm đối với sự trường tồn của Phật giáo Việt Nam.
09/01/2015(Xem: 4222)
Tháng 10 năm 1962, TT Chủ Tịch Ủy Ban Liên Phái… nhờ Tôi đi công tác Vũng Tàu, Tôi đi chuyến xe đò lúc 8g30 sáng, xe chạy vừa khỏi hãng xi-man Hà Tiên, thì có 3 người đón xe. Anh tài xế nói với tôi : “Thầy vui lòng xuống hàng ghế phía dưới để cho “mấy cha”ngồi, vui nghen Thầy”! Tôi lách mình qua khoản trống thì có 2 vị đưa tay đón và đở nhường chỗ ngồi còn nói lớn: “Ngộ ha, cha quí hơn Thầy “! Tôi sợ gây chuyện không vui, nên đưa tay và lắc đầu xin yên lặng. Vì đương thời bấy giờ bóng dáng của các áo đen có nhiều sát khí thế lực! Nhưng, Mộc dục tịnh, nhi phong bất đình 木欲淨而風不亭.Xe chạy êm ả, gió lùa mát rượi.
26/12/2014(Xem: 13449)
Phât tử Chơn Huy ở Hoa Kỳ về có đem theo tập tự truyện dày của Tỳ Kheo Yogavacara Rahula. Cô nói truyện rất hay, khuyên tôi đọc và nhờ tôi dịch ra Việt ngữ để phổ biến trong giới Phật tử Việt Nam. Câu chuyện rất lý thú, nói về đời của một chàng trai Mỹ đi từ chỗ lang bạt giang hồ đến thiền môn. Truyện tựa đề "ONE NIGHT'S SHELTER (From Home to Homelessness)--The Autobiography of an American Buddhist Monk". Tôi đọc đi rồi muốn đọc lại để thấu đáo chi tiết trung thực của một đoạn đời, đời Thầy Yogavacara Rahula. Nhưng thay vì đọc lại, tôi quyết định dịch vì biết rằng dịch thuật là phương pháp hay nhứt để hiểu tác giả một cách trọn vẹn. Vả lại, nếu dịch được ra tiếng Việt, nhiều Phật tử Việt Nam sẽ có cơ duyên chia sẻ kinh nghiệm quý báu của Thầy Rahula hơn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]