Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

33 Bài tán hình tượng Tổ sư của ngài Hám Sơn

05/06/201115:05(Xem: 10328)
33 Bài tán hình tượng Tổ sư của ngài Hám Sơn

CAO TĂNG DỊ TRUYỆN
(Truyện Kể Các Vị Cao Tăng Trung Quốc)
Hạnh Huệ biên soạn - Nhà Xuất Bản TP. Hồ Chí Minh 2001

PHỤ LỤC 33 VỊ TỔ

33 Bài tán Hình Tượng TỔ SƯ của ngài HÁM SƠN

Tổ thứ 1

TÔN GIẢ MA HA CA DIẾP

(Maha-Kasypa)

Thân hình sắc vàng
Kim chi sắc hình

Kim cang là tâm
Kim cang vị tâm

Vâng gìn huệ mạng
Phụng trì tuệ mạng

Thường chuyển pháp luân
Thường chuyển pháp luân

Thế Tôn nâng hoa
Thế Tôn niêm hoa

Khẽ mỉm miệng cười
Phá nhan nhất tiếu

Đến nay khiến ngưòi
Chí kim linh nhân

Nghĩ suy chẳng đến.
Tư nghì bất đáo.

Tổ thứ 2

TÔN GIẢ A NAN

(Ananda)

Nghe nhiều như biển
Đa văn như hải

Uống dòng rượu pháp
Ẩm súc pháp lưu

Chư Phật còn mất
Chư Phật xuất một

Chẳng rời đầu lưỡi
Bất ly thiệt đầu

Pháp êm dịu hóa
Cổ hoàng pháp hóa

Tiết phách thành lệnh
Tiết phách thành lệnh

Thế nên thầy ta
Thị cố ngã sư

Là chánh trong thiên
Vi thiên trung chính.

Tổ thứ 3

TÔN GIẢ THƯƠNG NA HÒA TU

(Sanakavasa)

Căn linh Bát Nhã
Bát Nhã linh căn

Kiếp trước đã chứng
Túc sanh dĩ chứng

Nên Sư sắp sanh
Cố sư tương xuất

Cỏ lành ứng trước
Thụy thảo tiên ứng

Dùng tâm ấn tâm
Dĩ tâm ấn tâm

Như lửa vào lửa
Như hỏa đầu hỏa

Đường hẹp gặp nhau
Hiệp lộ tương phùng

Không có chỗ trốn
Định một xứ đóa.

Tổ thứ 4

TÔN GIẢ ƯU BA CÚC ĐA

(Upagupta)

Một người tâm không
Nhất nhân tâm không

Cung ma chấn động
Ma cung chấn động

Cầm mũi kim cương
Ác kim cương phong

Ai dám đùa giỡn
Thùy cảm khinh lộng

Nếu chịu quay đầu
Nhược khẳng hồi quang

Tâm cuồng chóng hết
Cuồng tâm đốn hiết

Lễ bái quy y
Lễ bái quy y

Các tội tiêu diệt
Chư tội tiêu diệt.

Tổ thứ 5

TÔN GIẢ ĐỀ ĐA CA

(Dhrtaka)

Đã ngộ bổn tâm
Dĩ ngộ bổn tâm

Như trời soi đêm
Như nhật chiếu dạ

Mộng sanh tử này
Thị sanh tử mộng

Ánh sáng siêu việt
Quang minh siêu việ

Pháp thầy vốn không
Sư pháp bổn vô

Tâm con chẳng có
Ngã tâm bất hữu

Như không hợp không
Như không hợp không

Lưỡi không ra miệng
Thiệt bất xuất khẩu.

Tổ thứ 6

TÔN GIẢ DI GIÁ CA

(Miccaka)

Đều do đây đến
Đô nhân thử lai

Chẳng vì việc khác
Bất vi biệt sự

Gặp nhau giữa chợ
Náo thị tương phùng

Tự bày pháp khí
Tự thị kỳ khí

Huyền kiến chưa đến
Huyền kiến vị nhiên

Sớm biết hôm nay
Tảo tri kim nhật

Cứ lo buôn bán
Đương hành mãi mại

Chẳng kế giá cả
Bất luận giá trị.

Tổ thứ 7

TÔN GIẢ BÀ TU MẬT

(Vasumitra)

Từ đường nóng đến
Tùng nhiệt lộ lai

Chợt gặp bạn thân
Hốt phùng thân hữu

Một lời luận nghĩa
Nhất ngôn luận nghĩa

Chóng biết chưa có
Đốn tri vị hữu

Xin vị cam lồ
Khất cam lồ vị

Chỉ pháp hư không
Thị hư không pháp

Nếu nói có được
Nhược vị hữu đắc

Rơi bảy rụng tám
Lạc thất lạc bát.

Tổ thứ 8

TÔN GIẢ PHẬT ĐÀ NAN ĐỀ

(Buddhanandi)

Chẳng phải không nói
Bất thị bất ngôn

Nói không đến được
Ngôn chi bất cập

Chẳng phải không đi
Bất thị bất hành

Vốn không tung tích
Bổn vô tung tích

Nay gặp người này
Kim ngộ kỳ nhân

Mới mở miệng được
Nãi khả khai khẩu

Từ đây liền đi
Tùng thử tiện hành

Chẳng rơi hang ổ
Bất đọa khòa cửu.

Tổ thứ 9

TÔN GIẢ PHỤC ĐÀ MẬT ĐA

(Buddhamitra)

Ở trong thai mẹ
Trụ mẫu thai trung

Qua sáu mươi năm
Kinh lục thập niên

Chỉ đợi thầy đến
Chỉ đãi sư lai

Mới thỏa duyên trước
Phương toại tiền duyên

Trên đảnh quang minh
Đảnh thượng quang minh

Nguyên là sẵn có
Nguyên thị bổn hữu

Vừa vót liền thấu
Nhất quát tiện thấu

Như sư tử rống.
Như sư tử hống.

Tổ thứ 10

HIẾP TÔN GIẢ

(Parsva)

Chỉ đất thành vàng
Chỉ địa biến kim

Theo tay mà hiện
Tùy thủ nhi hiện

Thánh nhân liền đến
Thánh nhân tức chí

Còn gì mau hơn?
Hà đẳng khoái tiện

Tợ như hang trống
Tợ hồ không cốc

Ứng tiếng đáp vang
Ứng thanh đáp hưởng

Thì biết tâm ta
Thị tri ngã tâm

Vốn không qua lại.
Bổn vô lai vãng.

Tổ thứ 11

TÔN GIẢ PHÚ NA DẠ XA

(Punyaysas)

Phật chẳng biết Phật
Phật bất thức Phật

Mắt chẳng thấy sắc
Nhãn bất kiến nhãn

Lại kiếm nơi khác
Cánh hướng tha mích

Nên bị kiểm điểm
Cố tao kiểm điểm

Toan nói vẹn toàn
Tương vi hồn toàn

Sớm bị phá vỡ
Tảo bị giải phá

Mãnh tỉnh đưa ra
Mảnh tỉnh tương lai

Mới biết lời rụng.
Phương tri thoại đọa.

Tổ thứ 12

TÔN GIẢ MÃ MINH

(Asvaghosha)

Ngựa kêu bình thương
Mã chi bi minh

Sẵn tự có nhãn
Cố tự hữu nhân

Đất vọt cô gái
Địa dũng nữ tử

Nguyên chẳng phải người
Nguyên phi kỳ nhân

Ma vốn không ma
Ma phi bổn ma

Phật cũng chẳng Phật
Phật diệc phi Phật

Mắt chánh xem lại
Chánh nhãn khán lai

Rốt là vật gì?
Cánh thị hà vật.

Tổ thứ 13

TÔN GIẢ CA TỲ MA LA

(Kapimala)

Từ dị học đến
Tùng dị trung lai

Được tri kiến chánh
Đắc chánh tri kiến

Đường gặp rắn độc
Lộ phùng độc xà

Tâm từ bi hiện
Từ bi tâm hiện

Lại hỏi rồng độc
Cánh vấn độc long

Đều muốn điều phục
Đô yếu điều phục

Mắt thấy tâm hay
Nhãn kiến tâm tri

Như vang lìa hang
Như hưởng xuất cốc.

Tổ thứ 14

TÔN GIẢ LONG THỌ

(Nagarjuna)

Trong rồng dạy rồng
Long trung hóa long

Lấy độc chống độc
Dĩ độc công độc

Tôn giả tay khéo
Tôn giả diệu thủ

Một lời điều phục
Nhất ngôn điều phục

Phật tánh tam muội.
Phật tánh tam muội

Thể như hư không
Thể ngược hư không

Trăm ngàn pháp môn
Bách thiên pháp môn

Đều vào đây hết.
Tận nhập kỳ trung.

Tổ thứ 15

TÔN GIẢ CA NA ĐỀ BÀ

(Kanadeva)

Bỏ kim vào bát
Dĩ châm đầu bát

Diệu khế mất lời
Diệu kế vong ngôn

Dạy nghĩa Phật tánh
Thị Phật tánh nghĩa

Trăng tròn hiện tiền
Mãn nguyệt hiện tiền

Đến nhà trưởng giả
Chí trưởng giả gia

Đem kim kéo chỉ
Tương châm dẫn tuyến

Mượn nhân duyên người
Giả tha nhân duyên

Làm phương tiện mình.
Vi kỷ phương tiện.

Tổ thứ 16

TÔN GIẢ LA HẦU LA ĐA

(Rahulata)

Theo dòng được nguồn
Tầm lưu đắc nguyên

Suối cùng non tận
Thủy cùng sơn tận

Chợt gặp người này
Hốt kiến kỳ nhân

Biết ngay là Thánh
Tri kỳ vi thánh

Bưng cơm thơm đến
Hương phạn kình lai

Chia tòa dâng ăn
Phân tòa cung thực

Đại chúng cùng uống
Đại chúng đồng ẩm

Cam lồ như mật
Cam lồ như mật.

Tổ thứ 17

TÔN GIA TĂNG GIÀ NAN ĐỂ

(Saghanandi)

Chẳng thích cung vua
Bất lạc vương vung

Trời mở một đường
Thiên khai nhất lộ

Chạm thẳng cuối nguồn
Trực để cùng nguyên

Chẳng biết lý do
Bất tri kỳ cố

Dưới đám mây tía
Tử vân chi hạ

Chỗ nương của Thánh
Thánh giả sở y

Quả được đồng tử
Quả đắc đồng tử

Hội cơ chư Phật.
Hội chư Phật cơ.

Tổ thứ 18

TÔN GIẢ GIÀ DA XÁ ĐA

(Gayasata)

Bảy ngày chẳng sanh
Thất nhật bất sanh

Chẳng rơi các ấm
Bất đạo chư ấm

Thân thể thơm sạch
Kỳ thể hương khiết

Xưa nay thanh tịnh
Bổn lai thanh tịnh

Gõ cửa một lời
Khẩu môn nhất ngữ

Đáp không là ai?
Đáp vô giả thùy

Mạnh mẽ gọi tỉnh
Mãnh nhiên hóan tỉnh

Ngay đó biết về
Đương hạ tri quy.

Tổ thứ 19

TÔN GIẢ CƯU MA LA ĐA

(Kumarata)

Đã sanh thiên đường
Ký sanh thiên thượng

Chẳng nên dục ái
Bất ưng khởi ái

Một niệm chưa quên
Nhất niệm vị vong

Liền chẳng tự tại
Tiện bất tự tại

Do sức Bát Nhã
Dĩ Bát Nhã lực

Lại thăng cõi Phạm
Phục thăng Phạm thế

Nên đến truyền đăng
Cố lai truyền đăng

Là việc nhà mình.
Thị kỳ gia sự.

Tổ thứ 20

TÔN GIẢ XÀ DẠ ĐA

(Jayata)

Vô sanh vốn đủ
Vô sanh bổn cụ

Chẳng cần cầu chân
Bất dụng cầu chân

Gặp duyên thì phát
Ngộ duyên nhi phát

Như hoa gặp xuân
Như hoa phùng xuân

Cầu thì vội quá
Cầu chi thái cấp

Cách đạo càng xa
Khứ đạo chuyển viễn

Ngay đó biết về
Đương hạ tri quy

Đến đường quay lại.
Tựu lộ nhi phả.

Tổ thứ 21

TÔN GIẢ BÀ TU BÀN ĐẦU

(Vasubandhu)

Sáng tối đồng thể
Minh ám đồng thể

Thánh phàm một đường
Thánh phàm nhất lộ

Chỗ đến sâu xa
Lai xứ u vi

Chẳng biết thế nào?
Mạc trì kỳ cố

Người chỗ khó quên
Thục xứ nam vong

Lại cầu bạn lữ
Cánh cầu bạn lữ

Chợt lại gặp nhau
Hốt nhĩ tương phùng

Chấp nhận tâm mình.
Khẳng tâm tự hứa.

Tổ thứ 22

TÔN GIẢ MA NOA LA

(Manorhita)

Được thọ ký rồi
Tùng thọ ký lai

Chẳng làm việc khác
Bất vi biệt sự

Đồng loại theo nhau
Đồng loại tương tùng

Duyên gặp liền ngộ
Duyên hội tất ngộ

Ôi bầy hạc kia
Ta bỉ hạc chúng

Bay kêu đã lâu
Phi minh ký cửu

Chỉ ở một lời
Nhất ngôn chi ngôn

Chóng biết sẵn có.
Đốn tri bổn hữu.

Tổ thứ 23

TÔN GIẢ HẶC LẶC NA

(Haklena)

Từ đảnh Tu Di
Tùng Tu Di đảnh

Cầm vòng vàng lai
Trì kim hoàn lai

Ôi! Chúng hạc kia
Ta bỉ hạc chúng

Tình cảnh đáng thương
Kỳ tình khả ái

Gặp được sư tử
Đắc sư tử nhi

Rống tiếng rống lớn
Tác đại hô hống

Có khí xuyên trời
Hữu khí quán thiên

Thí nghiệm việc sau.
Thí nghiệm kỳ hậu.

Tổ thứ 24

TÔN GIẢ SƯ TỬ

(Aryasimha)

Gặp nhau đòi châu
Tưong kiến sách châu

Mở tay liền có
Khai phủ tiện hữu

Vì trước đã giao
Dĩ tiên sở phó

Từ biệt không lâu
Biệt lai bất cửu

Biết thiếu nợ trước
Tri hữu túc khiếm

Riêng đến đáp đền
Đặc lai phụng thù

Đầu kề gươm nhận
Tương đầu lâm nhận

Sữa trắng tuôn trào
Bạch nhũ hoành lưu.

Tổ thứ 25

TÔN GIẢ BÀ XÁ TƯ ĐA

(Basiasita)

Cầm kiếm Bát Nhã
Bỉnh Bát Nhã kiếm

Năm châu như ý
Ác như ý châu

Tuy nói tạm đến
Tuy vân tạm đáo

Hạnh này chẳng hư
Thử hạnh bất hư

Bỗng gặp người ác
Ngẫu ngộ ác nhân

Khéo được bạn tốt
Kháp đắc hảo bạn

Nhân tà đánh chánh
Nhân tà đả chánh

Tiện lợi cả hai.
Lưỡng đắc kỳ tiện.

Tổ thứ 26

TÔN GIẢ BẤT NHƯ MẬT ĐA

(Punyamitra)

Từ dòng Sát lợi
Tùng sát lợi chủng

Tiếp ngọn truyền đăng
Tục truyền đăng diệm

Nối pháp chẳng rõ
Chân tự bất minh

Cơ hồ mất hẳn
Cơ hồ thất hãm

Vào trong phố chợ
Tùng náo thị trung

Chợt gặp cố nhân
Hốt phùng cố nhân

Nắp hộp vừa vặn
Hàm cái tương hợp

Bèn được rõ chân.
Nãi đắc kỳ chân.

Tổ thứ 27

TÔN GIẢ BÁT NHA ĐA LA

(Prajnatara)

Chớ bảo không nhân
Mạc vị vô nhân

Gặp nhau liền thấy
Tương phùng tiện kiến

Chỗ đến tự nhiên
Lai xứ tự nhiên

Không nhờ phương tiện
Bất giả phương tiện

Nay nhân châu này
Kim nhân kỳ châu

Bèn được người ấy
Nãi đắc kỳ nhân

Đào ao được trăng
Khai trì đắc nguyệt

Mua đá được (thêm) mây.
Mãi thạch nhiêu vân.

Tổ thứ 28

TÔN GIẢ BỒ ĐỀ ĐẠT MA

(Bodhidharma)

Tâm sư thật gấp
Sư tâm thậm cấp

Đến đây quá sớm
Kỳ lai thái tảo

Một lời chẳng hợp
Nhất ngữ bất đầu

Tâm này chẳng xong (rõ)
Thử tâm bất liễu

Ngồi lạnh Thiếu Lâm
Lãnh tọa Thiếu Lâm

May được Thần Quang
Hạnh đắc Thần Quang

Một tay rơi rụng
Nhất tí đọa lạc

Đạo này thịnh hưng.
Kỳ đạo đại xương.

Tổ thứ 29

ĐẠI SƯ HUỆ KHẢ

Vượt thuyền riêng đến
Hàng hải đặc lai

Biết bao khổ tâm
Đa thiểu khổ tâm

Trong nước Trung Hoa
Chấn Đán quốc lý

Chỉ được một người
Kỳ đắc nhất nhân

Tìm không thể được
Mích bất khả đắc

Như nước tùy bình
Như thủy nhậm khí

Lấy đây trao truyền
Dĩ thử truyền gia

Đấy là đệ nhị.
Thị vi đệ nhị.

Tổ thứ 30

ĐẠI SƯ TĂNG XÁN

Suốt thân là bệnh
Thông thân thị bịnh

Chẳng biết từ đâu
Bất tri lai xứ

Chợt gặp y vương
Hốt phùng y vương

Tỉnh hẳn duyên cớ
Mãnh tỉnh kỳ cố

Tâm rỗng xương cứng
Tâm không cốt cương

Lại đi hành cước
Thả tiện hành cước

Gặp người có sức
Ngộ hữu lực giả

Một gánh giao cho.
Nhất đảm phó thác.

Tổ thứ 31

ĐẠI SƯ ĐẠO TÍN

Tuổi trẻ xuất gia
Thiếu niên xuất gia

Lợi căn nhậm lẹ
Lợi căn tiệp tật

Hơn sáu mươi năm
Lục thập dư niên

Hông không dính chiếu
Hiếp bất chí tịch

Người học tụ tập
Học lữ vân trăn

Đâu tiếp trẻ con
Hà đãi tiểu nhi

Vì có hẹn xưa
Dĩ hữu túc ước

Người xem chẳng biết.
Quán giả bất tri.

Tổ thứ 32

ĐẠI SƯ HOẰNG NHẪN

Lai lịch chẳng tỏ
Lai lịch bất minh

Xuất thân đúng lúc
Xuất thân kháp hảo

Một việc chưa xong
Nhất kiện vị hoàn

Hai nhà đều rõ
Lưỡng gia đô liễu

Trong núi Phá Đầu
Phá đầu sơn trung

Trên đường Hoàng Mai
Hoàng Mai lộ thượng

Qua lại tự do
Vãng lai tự do

Đủ tướng đại nhân.
Cụ đại nhân tướng.

Tổ thứ 33

ĐẠI SƯ HUỆ NĂNG

Búa tiều vừa ném
Tiều phủ tài phao

Lấy đá cột eo
Dĩ thạch trụy yêu

Linh căn trồng lâu
Linh căn cửu thực

Từ đây nảy nhánh
Tùng thử trừu điều

Nguồn từ Tào Khê
Nguyên xuất Tào Khê

Trôi khắp đại địa
Hoành lưu đại địa

Thẳng đến bây giờ
Trực chí vu kim

Không đâu chẳng phải.
Vô xứ bất thị.

52. THIỀN SƯ QUY TÔNG TUYÊN

Thiền Sư Quy Tông Tuyên, người Hán Châu, nối pháp Ngài Lang Gia Quảng Chiếu kết thân với Quách Công Phủ. Chợt một hôm có quan trấn thủ Nam Khang đến, Sư sai người đem thơ cho Công Phủ lại dặn người đưa thơ chớ cho quan huyện trông thấy. Công Phủ đọc thơ thấy ủy thác rằng:

- Tôi còn sáu năm duyên đời chưa hết, hôm nay không chịu nổi áp bức muốn thác sanh vào nhà ông, mong ông chiếu cố cho.

Công Phủ vừa sợ vừa mừng, nửa đêm bà vợ mơ màng thấy Sư vào trong phòng ngủ, bất giác thất thanh nói:

- Đây không phải là chỗ Hòa thượng đến.

Công Phủ hỏi duyên cớ, bà vợ kể lại. Công Phủ sai đốt đền, lấy thơ của Sư cho coi. Quả nhiên sau bà vợ có thai sanh con đặt là Tuyên Quang. Vừa đầy năm đã nhớ hỏi chuyện trước.

Đến ba tuổi, Hòa thượng Bạch Vân Đoan đi qua nhà này, Công Phủ kêu con ra tương kiến, vừa thấy kêu lên:

- Sư Điệt! (cháu).

Hòa thượng Đoan nói:

- Cùng Hòa thượng từ biệt nhau đã mấy năm rồi?

Tuyên co ngón tay nói:

- Bốn năm.

Hòa thượng Đoan nói:

- Tương biệt tại đâu?

- Tại Bạch Liên Trang.

- Lấy gì để chứng nghiệm?

- Cha mẹ tôi ngày mai sẽ mời Hòa thượng thọ trai.

Chợt có tiếng đẩy xe qua ngoài cửa. Hòa thượng Đoan nói:

- Tiếng gì ngoài cửa vậy?

Tuyên làm thế đẩy xe. Hòa thượng Đoan nói:

- Qua thế nào?

- Đất bằng có một rãnh nước.

Đến sáu tuổi không bệnh mà chết.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/09/2016(Xem: 5689)
Vào cuối đời Tây Tấn, vua Huệ Đế ngu tối, việc triều chính đều do hoàng hậu Giả thị chủ trương. Giả hậu là người nham hiểm, lại biết quyền biến đởm lược, mưu giết các thân vương, phế bỏ Thái tử. Triệu Vương Luân bèn phẫn uất, cử binh giết Giả hậu, truất phế vua Huệ Đế mà tự xưng lên làm vua. Các thân vương khác thấy vậy cũng dấy binh tranh giành lẫn nhau, cốt nhục tương tàn, làm cho nhà Tấn suy yếu.
22/08/2016(Xem: 4624)
Sáng hôm nay trong thinh lặng của một sáng chủ nhật mùa đông, tôi muốn dành tâm trí thảnh thơi để viết vài hàng trả nợ cho cô bạn tí hon ngày xưa. Nợ vì tôi cứ hẹn sẽ viết cho nàng. Gọi là bạn nhưng chưa bao giờ nói chuyện, gọi là bạn vì học cùng trường. Tí hon vì nhỏ hơn tôi ba tuổi. Từ nhỏ, tôi có một tật rất xấu, tôi xem ai nhỏ tuổi hơn tôi là con nít. Vì sao chỉ hơn vài tuổi mà khi nào tôi cũng có cảm tưởng như mình đứng rất cao để nhìn xuống những người tí hon này!
11/08/2016(Xem: 4233)
Nó không biết chính xác năm nay mình bao nhiêu tuổi, chỉ nghe sư thầy nói nó ở chùa đã 12 năm với cái tên Quảng Chân Tâm. Tất cả những đứa trẻ ở chùa ngoài tên đời do cha mẹ đặt, sư thầy đều cho pháp danh với chữ Quảng đứng đầu.
03/08/2016(Xem: 37107)
Nhà thơ triết gia Phạm Công Thiện [1941 - 2011] qua đời năm 2011 tại Houston, nhưng chuyện kể, các bài viết về anh đã nhiều lầm lạc : Người viết : anh bỏ áo tu hành lấy cô vợ người Pháp, theo Thiên Chúa Giáo, kẻ khác viết : anh không hề có một mảnh bằng kể cả bằng tú tài mà dạy Triết Học Viện Đại học Sorbonne, mười lăm tuổi anh đọc và viết hàng chục ngôn ngữ, mười lăm tuổi anh dạy trung học, hai mươi tuổi anh là khoa trưởng khoa Khoa Học Nhân Văn, Đại Học Vạn Hạnh Sài Gòn, anh là triết gia không cần học một ai ? Dạy Triết học tại một Đại Học Pháp mà không cần một văn bằng nào ?
25/07/2016(Xem: 5303)
Người đàn bà đến bên cửa sổ ghé mắt nhìn ra ngoài trời. Qua lớp mưa mù dầy đặc trắng xoá ngoài kia bà chẳng nhìn thấy được gì ngoài những tia chớp xé toạt không gian kèm theo hàng loạt tiếng sấm như long lỡ đất trời. Thời tiết chiều nay quá xấu, xấu hơn người ta đã dự đoán và xấu hơn sự suy nghĩ của Quang, đứa con trai lớn của bà. Đã mấy tháng rồi nó mới có dịp bay về thăm bà vậy mà hôm nay trời lại mưa bão quá chừng! Trước khi lên máy bay nó còn gọi báo cho bà biết: - Bên đây thời tiết đẹp lắm má! Mong rằng khi con bay sang đến Cali thì trời quang mây tạnh, con sẽ chở má đi ăn và ở chơi với má đến tối mới về lại khách sạn.
06/07/2016(Xem: 8688)
Hôm nay là ngày 10 tháng 6 năm 2015, tại thư phòng chùa Viên Giác Hannover, Đức Quốc, tôi bắt đầu viết tác phẩm thứ 65 của mình với tựa đề là “Nước Úc trong tâm tôi” để sang năm 2016 sẽ xuất bản và ấn tống. Tác phẩm nầy được viết trong mùa An Cư Kiết Hạ lần thứ 31 của năm Ất Mùi, nghĩa là từ năm 1984 đến nay (2015) cứ mỗi năm ba tháng như vậy, Thầy trò chúng tôi có trọn vẹn 3 tháng an cư tại chùa Viên Giác thật là an lạc. Chương trình mỗi ngày được bắt đầu từ 5 giờ 45 sáng. Đại Chúng vân tập nơi Tổ Đường để xá Tổ, sau đó lên Chánh Điện, hô canh và tọa thiền 15 phút. Sau khi xả thiền, Đại Chúng bắt đầu trì tụng Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm, phần giữa của thời khóa có kinh hành niệm Phật ba vòng, tiếp đó lạy danh hiệu của chư Phật, Bồ Tát và Thánh Chúng độ 35 lạy. Sau thời công phu khuya ai về phòng nấy để nghỉ ngơi hay hành trì tiếp, hoặc tập thể dục. Đúng 8 giờ sáng là giờ điểm tâm của Đại Chúng, ai nấy đều tỉnh thức trong lúc dùng sáng, không nói chuyện, mà câu chuyện hằng ngày chỉ được
13/06/2016(Xem: 4396)
Hoa Lan nhất định không đầu hàng ngẩng mặt than thở: “Đời là bể khổ, tình là giây oan“ như cụ Tố Như đâu. Hoa Lan phải tâm tâm niệm niệm cột vào tâm câu Nhất thiết duy tâm tạo, khổ hay vui đều do cái đầu và bàn tay năm ngón của ta điều binh khiển tướng. Hoa Lan sẽ kể về nỗi khổ, niềm đau của thế gian trong trường thiên Tỵ Nạn Tình Duyên, một vấn nạn trong cuộc sống lứa đôi, trong vòng ái ân, sinh tử. Nỗi khổ chúng sanh chỉ cần khoanh vùng trong hai chữ tỵ nạn cũng đủ làm ta khiếp vía. Nào tỵ nạn cộng sản, con rơi của tỵ nạn chính trị, cháu rớt của tỵ nạn kinh tế, những đề tài ấy nhắc đến đã đủ ù tai hoa mắt và cũng chẳng phải là sở trường của mình, Hoa Lan sẽ kể về đề tài tỵ nạn tình duyên, nơi đã đi, đã đến và đã về.
01/06/2016(Xem: 13220)
Bài này được viết như một ghi chú cho Thiền Tông, để như một cách tiếp cận đơn giản… và hy vọng, cũng là một ghi chú cho rất nhiều pháp khác của nhà Phật, kể cả Tịnh Độ. Bởi vì, Thiền Tông là pháp môn cốt tủy nhất, trực tiếp nhất, không qua bất kỳ phương tiện nào khác, và cũng có thể dùng làm chiếc cửa lớn cho tất cả các pháp khác.
31/05/2016(Xem: 20956)
Chuyện xảy ra ở Việt Nam, nhưng lại bắt đầu từ bên Mỹ. Số là, vào khoảng thời gian năm 1956, có một kỹ sư Hoa Kỳ tên là Frank M.Balk. Chàng kỹ sư này suốt đời chẳng biết gì về cái xứ bé nhỏ xa xôi tận vùng Đông Nam Á tên gọi là Việt Nam cả.
27/05/2016(Xem: 6570)
Bao nhiêu năm ao ước cho đến hôm nay tôi mới có duyên lành được hành hương về Tây Trúc - Tây Trúc hay Thiên Trúc là tên gọi trước đây của xứ Ấn Độ. Trong phái đoàn tôi đi có nhóm Sợi Nắng và các Phật tử đến từ Canada cũng như Hoa Kỳ. Về chư Tăng thì có thầy Tánh Tuệ - nhà thơ Như Nhiên. Thầy là người từng sống và học tập ở Ấn Độ suốt bảy năm nên thầy nắm rất rõ về lịch sử, địa lý, phong tục tập quán... của người Ấn Độ. Cũng chính vì thâm niên như vậy nên nước da thầy rám nắng và người ta thường gọi thầy với cái tên rất gần gũi là "thầy cà-ri". Ngoài ra, phái đoàn còn có thêm sư cô An Phụng và sư cô Huệ Lạc
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]