Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

17. Tôn Giả Bôi Ðộ

05/06/201115:05(Xem: 9260)
17. Tôn Giả Bôi Ðộ

CAO TĂNG DỊ TRUYỆN
(Truyện Kể Các Vị Cao Tăng Trung Quốc)
Hạnh Huệ biên soạn - Nhà Xuất Bản TP. Hồ Chí Minh 2001

17. TÔN GIẢ BÔI ĐỘ

Ban đầu Sư thị hiện ở Ký Châu, diện mạo rất khô cằn, lạnh lùng, thường cưỡi cây trên sông Bôi Độ, thần hóa khôn lường. Sư không tu tế hạnh, có lúc đập băng mà tắm, lúc lại mang guốc lên núi, hoặc đi chân không vào chợ, vác một cái bị mà thôi, chẳng có gì khác.

Một hôm Sư đến Quảng Lăng, gặp nhà họ Lý trong làng đang cúng trai tăng, Sư đặt bị giữa sân rồi vào thẳng trai đường mà ngồi, mọi người đều nhìn mà Sư vẫn tự nhiên.

Khi ấy, có mấy người thấy chiếc bị để chắn giữa đường, bèn dời qua một bên, nào ngờ dùng hết sức mà không nhúc nhích. Ăn xong, Sư vác bị lên, cười nói:

- Tứ thiên vương!

Có đứa bé họ Lý lén nhìn thấy trong bị có bốn đứa bé cao mấy tấc, mi mắt như tranh vẽ. Họ Lý thấy lạ, bèn thỉnh Sư lại cúng dường rất lâu. Một hôm, Sư đòi áo cà sa, họ Lý chưa lo kịp, Sư nói:

- Tôi ra ngoài kia một chút!

Đợi đến chiều cũng chưa thấy Sư trở lại, lại nghe trong không có mùi hương lạ, mọi người theo tìm thì gặp Ngài ở dưới chân Bắc Sơn, trải cà sa rách trên đất, an nhiên thị tịch, trên đầu và dưới chân có hoa sen mọc, cả người tỏa hương thơm, qua đêm bỗng héo. Người ta chôn Ngài đã mấy hôm, sau lại có người từ phương Bắc đến nói rằng thấy Ngài vác bị đi về hướng Bành Thành. Họ Lý mở quan tài, chỉ thấy có đôi giày.

Ngài đến Bành Thành, có ông Hoàng Hân tin sâu Phật Pháp, thấy Ngài bèn chào hỏi rồi thỉnh về nhà. Nhà ông lại quá nghèo chỉ ăn gạo tẻ mà thôi, nhưng Ngài ăn vào lại ngọt như mạch nha. Sau Ngài đi về phương Đông đến Ngô Quận, thấy người chài đang lưới cá, Ngài theo xin, người chài nổi giận không cho. Ngài lượm hai cục đá nhỏ ném xuống nước, phút chốc có hai con trâu húc vào lưới làm rách nát rồi trâu biến mất.

Chu Linh Kỳ, dân ở Ngô Quận, từ Cao Ly trở về, bị gió thổi đến một hòn đảo, thấy một ngôi bảo tự. Tăng trong chùa đang dọn cơm, ông liền đến vái chào, xin giúp trở về làng. Vị tăng ấy hỏi:

- Ông biết đạo nhân Bôi Độ chăng?

- Biết!

Vị tăng chỉ một cái đãy treo trên vách, có tích trượng và bình bát, nói:

- Đây là của Bôi Độ. Nay tôi gởi ông đưa bình bát này cho ông ta.

Và viết thơ. Xong đưa gậy trúc xanh bảo đặt trước thuyền. Linh Kỳ theo lời, ba ngày liền đến Thạch Đầu. Bôi Độ bỗng đi đến, nhận thơ xem rồi cười to, lấy tay tung bình bát lên không, rồi đón lấy nói:

- Ta chẳng thấy bình bát này cách đây đã bốn ngàn năm.

Đời Tống, niên hiệu Nguyên Gia thứ ba, tháng 9 Sư thị tịch. Sau khi diệt độ, người ta vẫn gặp Ngài luôn. Ngài có làm bài ca “Một Bình Bát” như sau:

Sợ kinh khiếp!

Đều là liên miên tạo xoa sát (mạt thát).

Như đói ăn muối càng thêm khát,

Uổng cả một đời đầu cạo miết

Cứu cánh chẳng thể biết gốc ngọn

Ném tử thi đi, chỗ nào thoát?

Khuyên anh nổ lực cầu giải thoát

Việc nhàn rốt cuộc phải nắm bắt

Lửa rớt trên thân cần phải phủi

Chớ đợi gần chết kêu Bồ tát.

Trượng phu nói năng hải khoáng đạt

Chớ học phàm phu ưa vuốt ve

Theo thời, kết quả học bỏ hết

Cũng học nhu hòa, ăn gạo dở

Cũng cạo đầu, cũng đắp y

Học phàm phu tạo sanh hoạt

Nói thẳng với anh, anh chưa đạt

Lại làm trường ca, ca một bát.

Một bát ca, một trong nhiều,

nhiều trong một.

Chớ cười người quê ca một bát

Từng đem một bát độ ta bà.

Trời xanh lồng lộng trăng vừa lên

Lúc này ảnh – không gồm vạn tượng

Bao chốn phù sinh tự thị phi

Một nguồn thanh tịnh không lai vãng.

Lại chớ đem tâm tạo bọt nước

Trăm lông máu chảy ai dạy thế.

Chẳng bằng ngồi lặng đất Chân như

Trên đảnh mặc cho chim làm ổ.

Mấy đời con Kim Luân Thánh Vương

Chỉ là Chân như Linh giác này

Dưới cội Bồ đề độ chúng sanh

Độ hết chúng sanh không sanh tử.

Chẳng sanh chẳng tử, chân Trượng phu

Không hình không tướng, đại Tỳ Lô

Trần lao diệt hết, Chân như đấy.

Một viên tròn sáng, châu vô giá.

Mắt không thấy, tai chẳng nghe.

Chẳng thấy, chẳng nghe, thật thấy nghe.

Từ xưa một câu, không ngôn thuyết

Hôm nay ngàn lời gượng phân tích.

Hãy lắng nghe!

Người người đều có tánh Chân như

Giống như hoàng kim ở trong quặng

Luyện đi luyện lại, thể vàng sạch.

Chân là vọng, vọng là chân.

Nếu trừ chân vọng lại không người

Chân tâm chớ dối sanh phiền não

Cơm áo tùy thời nuôi sắc thân.

Tốt cũng mặc, xấu cũng mặc

Tất cả vô tâm chớ dính mắc

Cũng không tốt, cũng không xấu

Hai mé thản nhiên, đạo bình đẳng.

Thô cũng ăn, tế cũng ăn

Chớ học phàm phu nhìn trên tướng

Cũng không thô, cũng không tế

Hương tích cõi trên không cội rễ.

Ngồi cũng đi, đi cũng ngồi

Dưới cây sanh tử, quả Bồ đề

Cũng không ngồi, cũng không đi

Không sanh đâu cần kiếm vô sanh!

Sanh cũng được, tử cũng được

Xú xứ đương lai thấy Di Lặc

Cũng không sanh, cũng không tử

Ba đời Như Lai đều như thế.

Lìa thì dính, dính thì lìa

Trong cửa huyễn hóa không nghĩa thật

Không thể lìa, không thể dính,

Chỗ nào lại cầu không bệnh thuốc?

Nói thời im, im thời nói

Nói nín ngang dọc không chỗ nơi.

Cũng không nói, cũng không nín

Chớ gọi Đông Tây là Nam Bắc.

Sân tức hỉ, hỉ tức sân,

Ta tự hàng ma, chuyển Pháp Luân

Cũng không sân, cũng không hỉ

Nước chẳng lìa sóng, sóng tức nước.

Tiếc thời bỏ, bỏ thời tiếc

Chẳng lìa trong ngoài và ở giữa

Cũng chẳng tiếc, cũng chẳng bỏ

Tịch tịch liêu liêu không chỗ nắm.

Khổ thì vui, vui thì khổ.

Chỉ tu hành này dứt cửa nẻo

Cũng không khổ, cũng không vui

Xưa nay tự tại không dây nhợ.

Dơ tức sạch, sạch tức dơ

Hai bên rốt cuộc không sau trước

Cũng chẳng dơ, cũng chẳng sạch

Đại thiên đồng một tánh chân như.

Thuốc là bệnh, bệnh là thuốc

Cuối cùng hai việc cần nêu hết

Cũng không thuốc, cũng không bệnh

Chính là chân như tánh giác linh.

Ma làm Phật, Phật làm ma

Trong gương tìm bóng, sóng trên nước

Cũng không ma, cũng không Phật

Ba đời xưa nay không một vật.

Phàm tức thánh, thánh tức phàm

Keo trong màu xanh, trong nước lam

Cũng không phàm, cũng không thánh

Vạn hạnh tổng trì, không một hạnh.

Giả trong chân, chân trong giả.

Tự là phàm phu khởi vọng trần

Cũng không chân, cũng không giả

Nếu không lúc gọi đâu vâng dạ!

Xưa nay không họ cũng không tên

Chỉ vậy đằng đằng chân tin bước

Có lúc quán chợ cùng hàng thịt.

Một đóa sen hồng trên lửa sanh

Cũng từng gậy trúc dạo kinh lạc

Thân dường mây nổi không vướng mắc

Huyễn hóa từ lâu tợ ở nhờ

Nhà người chỗ chạm lại thanh hư

Nếu tìm giới!

Ba độc lở loét bao giờ khỏi?

Nếu kiếm thiền!

Ta tự tung hoành tìm đá ngủ

Thật đáng thương, chẳng phải điên

Thế gian, xuất thế, thiên trung thiên

Người đời chẳng hiểu được ý này

Đánh nhằm bên Nam, động bên Bắc.

Nếu kiếm pháp!

Trong núi Kê Túc hỏi Ca Diếp

Đại sĩ giữ y ở trong này

Xưa nay chẳng cần cầu giữ vỏ.

Nếu tìm kinh!

Pháp tánh Chân Nguyên không thể nghe.

Nếu kiếm luật!

Cùng tử chẳng nên dạy chạy ra.

Nếu tìm tu!

Tám vạn phù đồ cầu chỗ nào?

Chỉ biết lá vàng dừng tiếng khóc.

Bất giác mây đen che mặt trời

Chớ lạ lời cuồng không thứ lớp

Sàng lưới dần vào tế trong thô

Chỉ cái tế trong thô cũng không

Tức là viên minh chân thật đế.

Chân thật đế vốn không chân

Chỉ là danh văn, tức là trần

Nếu hướng trong trần hiểu chân thật

Liền là đường đường người xuất thế.

Người xuất thế, chớ tạo tác

Độc hành, độc bộ, không thênh thang

Không sanh, không tử, không Niết Bàn

Xưa nay sanh tử không quan hệ.

Không thị phi, không động tĩnh

Chớ dối đem thân vào giếng không

Không thiện ác, không đến đi

Cũng không gương sáng treo đài cao

Kiến giải sơn tăng chỉ như thế

Chẳng tin tùy họ tạo kiếp tro.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/09/2013(Xem: 7716)
Khi bước xuống thuyền vượt biên ai cũng mang đầy hy vọng, mơ ước... Có kẻ mơ ước một tương lai xán lạn ở chân trời mới, có người chỉ mong những giấc mộng bình thường: Ngày hai bữa đủ no, tự do yên ổn...
11/09/2013(Xem: 4244)
Hân tra chìa khóa, mở cửa bước vào phòng làm việc. Căn phòng khá rộng. Diện tích gấp hai sân bóng rổ hầu hết chứa kệ vải. Ở một góc sát cửa sổ nhìn ra ngọn đồi cỏ là chỗ làm việc của Hân với Susan, chiếm 1/6 căn phòng, có một bàn dài, kế đó là những dãy kệ chứa nú
11/09/2013(Xem: 4759)
Hằng năm vào tháng mười, sinh nhật tôi, tôi có thông lệ, trước tiên là tự nhắc mình đóng tiền niêm liễm đến Văn Bút Âu Châu (tôi là hội viên mà), kế đó là cố nặn óc tìm một truyện ngắn về đề tài Sinh Nhật coi như món ăn tinh thần "đãi" quí vị độc giả.
10/09/2013(Xem: 6177)
Một lần nữa, chẳng quản đường xá xa xôi, thời gian, công sức, tôi tìm về tu viện Viên Đức Đức quốc không những gặp lại nhị vị Đại Đức Thích Hạnh Đức, Đại Đức Thích Hạnh Tuệ, tôi đã may mắn tiếp thụ tài thuyết giảng của hai Thầy; một người giảng thật nhẹ nhàng nhưng sâu, một người giảng lôi cuốn hấp dẫn trong khoá tu học do anh em Gia Đình Phật Tử Thụy Sĩ tổ chức vào dịp lễ Phục Sinh hằng năm vừa qua, mà còn hân hoan chào đón thêm 6 vị trong phái đoàn “Hoằng Pháp Âu Châu” do Hòa Thượng Phương Trượng Thích Như Điển tổ chức, một lực lượng hùng hậu chưa từng có từ trước đến nay. Nhìn trong danh sách giảng huấn của phái đoàn, tôi gọi đùa, toàn “Cao thủ võ lâm!” mặc dù không ai là võ sĩ cả mà là tu sĩ!
10/09/2013(Xem: 7670)
“Hậu sinh khả úy“ (kẻ sanh sau thật đáng nể sợ) là câu nói của ngài Khổng Tử, một triết gia Trung Hoa thốt ra khi ngài cùng học trò đi dạo thấy một em nhỏ vọc gạch cát xây thành giữa lối đi, ngài bảo: “Tránh chỗ cho xe ta qua“. Đứa nhỏ đứng dậy, đáp: “Xưa nay, xe tránh thành, chứ thành nào lại tránh xe“. Thấy đứa nhỏ đối đáp thông minh, Khổng Tử xuống xe cùng bé trò chuyện, đưa ra nhiều câu hỏi rất khó khăn, đứa bé đều trả lời thông suốt
09/09/2013(Xem: 5194)
Đối với những ai đã từng ghé Ấn Độ, nghe ngóng, tìm hiểu, quan sát, hẳn không xa lạ gì với thế giới của lực lượng Tăng Ni sinh viên Việt Nam đang du học tại đó. Nhưng với riêng tôi, cho mãi năm 2011 trong chuyến hành hương Tích Lan, tôi mới thực sự biết được bằng mắt thấy tai nghe thế giới lạ đó qua sự giới thiệu của Hòa Thượng Phương Trượng chùa Viên Giác về bốn sinh viên tu sĩ, học tăng từ Ấn Độ.
09/09/2013(Xem: 5256)
Nói đến, viết đến các khóa học Âu Châu, bao năm qua cây viết của tôi đã gần mòn, đã có nhiều bài viết về khóa học, viết đến độ không còn gì để viết. Nào ăn, nào ngủ, nào học, nào chơi... đủ cả. Khỏe cả bên trong, tốt lẫn cả bên ngoài. Thế thì lần này sẽ viết về gì đây?! Xin thưa, viết về “Thiên Đường Hạ Giới“ ạ.
06/09/2013(Xem: 4349)
Từ chùa Từ Đàm, tôi trở lại khóa học, nơi tổ chức khóa tu Âu Châu của mười ngày qua. Sân trường giờ vắng hoe. Thảm cỏ xanh dẫn ra con đường lớn, không còn một bóng người. Vài băng ghế nằm rải rác trên sân cỏ cũng đìu hiu như nhớ, như chờ ai. Bên trong trường học lưa thưa sót lại một số người đang dọn dẹp và một số đang đợi chuyến bay cho ngày hôm sau khi khóa học bế giảng. Hằng ngàn người, mới đó mà...biến mất. Biến như một cơn gió thoảng qua.
06/09/2013(Xem: 8603)
Lý số, đông y là nghề của bố chồng tôi. Không rõ nhờ cụ thực tài hay tại hành nghề miễn phí, không nhận thù lao của khách nên khách của cụ khá đông. Một ngày, năm đó tôi vừa 23 tuổi, có một vị khách đặc biệt đến nhà giữa lúc bố tôi đi vắng. Vị khách tướng tá khác phàm, râu tóc bạc phơ, cốt cách như một tiên ông. Cụ mặc chiếc áo dài the, đầu đội khăn đóng như bố chồng tôi vậy, tay cụ cầm gậy trúc và tự xưng là bạn của bố tôi mặc dù xưa nay tôi chưa hề gặp cụ bao giờ. Tôi mời cụ vào nhà.
29/08/2013(Xem: 10013)
Năm 1983: chúng tôi cạn kiệt khi mua xong đất làm tự viện mà còn thêm nợ nữa. Mảnh đất thật trơ trọi, không nhà cửa, một túp liều cũng không, Suốt mấy tuần lễ đầu chúng tôi phải ngủ trên cánh cửa cũ mua rẻ trong bãi phế liệu. Chúng tôi kê bốn góc gạch làm giường (dĩ nhiên làm gì có nệm – chúng tôi tu ở rừng mà!).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]