Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

8. Nhân nào quả đó

24/04/201109:25(Xem: 7781)
8. Nhân nào quả đó

CON ĐƯỜNG SÁNG
(SỰ THẬT NHÂN QUẢ)
Thích Huyền Diệu

NHÂN NÀO QUẢ ĐÓ

Vài lần nói chuyện cũng như viết bài, tôi đã kể một phần nào cuộc đời không may mắn của tôi thời thơ ấu, mà tôi thường nói vui là tôi sanh nhằm ngôi sao lạch ạch (hay còn gọi là sao xấu). Ngay từ khi còn nhỏ, tôi đã bị mang nhiều chứng bệnh nan y mà nhiều vị bác sĩ và lương y vào thời đó tiên đoán rằng tôi sẽ không sống lâu. Bệnh hoạn dồn dập làm cho thân thể tôi ốm yếu gầy còm, và có lẽ vì vậy mà ảnh hưởng đến tinh thần của tôi chăng? Tôi thấy ai tôi cũng sợ, cái gì tôi cũng lo. Gặp cái gì khó là bị hốt hoảng. Cứ thế mà tôi thường ôm mặt lẫn vào bóng tối khóc một mình để không ai biết. Rồi mỗi ngày khi màn đêm buông xuống, cơn sợ hãi trong tôi càng tăng thêm. Tôi sợ bóng tối, sợ ma quỷ … có thể đến bắt tôi vào những lúc trời tối. Tôi nhớ lúc nhỏ, nhiều lúc tôi mong mỏi mặt trời đừng bao giờ lặng và bóng đêm đừng bao giờ có, mà sau này khi lớn lên mới nhận ra rằng đó chỉ là sự mơ ước không tưởng, mơ ước của những trẻ thơ đầy sợ hãi, sợ bóng tối.

Cảnh sợ hãi bệnh hoạn liên miên theo tôi rất nhiều năm! Ngoài ra những trận đòn khốc liệt còn dồn dập lên thân tôi. Có nhiều lúc, sau những trận đòn, thân thể tôi bị thương tích bầm tím nhiều nơi, có chỗ chảy máu. Nhiều khi bị đòn quá nặng tôi đi không được! Quá đau đớn và mất niềm tin vào cuộc sống, nên mặc dù còn nhỏ tôi đã có ý định tự tử nhiều lần, nhưng dừng lại vì sợ khi tự tử chết rồi ba má tôi sẽ bị công an cảnh sát bắt, thế là tôi bỏ ý định tự tử. Tôi bị đánh đập hành hạ có lẽ vì tôi là con trai duy nhất trong gia đình được Ba tôi thương nhất. Khi Ba và Má tôi chia tay thế là tôi trở thành nạn nhân. Mỗi lần tôi nhớ và nhắc đến Ba là bị đòn chí tử. Dường như bao nhiêu tức giận hận thù khó khăn trong gia đình đều đổ dồn lên thời thơ ấu của tôi. Quả thật là một tai họa lớn đổ lên tuổi thơ tôi. Mặc dù bệnh hoạn và bị hành hạ, nhưng tôi vẫn thương yêu Má. Những hình ảnh Má tôi thức khuya dậy sớm buôn bán tảo tần để cho tôi được đến trường học, rồi có những bữa cơm tôi ăn và quần áo cho tôi mặc. Những kỷ niệm đẹp và cao quý đó tôi không bao giờ quên trong cuộc đời. Đặc biệt nhờ sự khuyến khích của Ba Má, nên tôi đã cố gắng học và rồi thành công mới có được cuộc sống đầy an lạc hạnh phúc như ngày hôm nay. Nhờ ân đức Ba Má nên tôi mới có được thân này, nhờ có được thân này tôi mới thưởng thức được nhiều cái hay cái đẹp trong cuộc đời và làm được một số điều phước đức.

Bỏ ý định tự tử vì sợ người thân bị công an cảnh sát bắt, thế là tôi quyết định trốn nhà ra đi, mà đi đâu bây giờ? Ra đi bị đói khổ không nhà ở… thế là còn khổ hơn khi bị Má đánh đập, thà bị thương tích, bị đánh đập còn có cơm ăn có chỗ ở, khi nhỏ nhưng tôi đã suy nghĩ những điều này. Nhưng nếu trốn về ở với ba một thời gian, Ba lại dắt về Má thì lại bị đòn nặng hơn. Việc trốn nhà ra đi hay ở lại đã làm tôi phân vân rất nhiều tháng! Nhưng vì bị đánh đập dồn dập chịu không nổi, thế là cuối cùng tôi đành trốn nhà ra đi vào một đêm khuya sau một trận đòn nặng mà tôi phải lết đi từng bước, mặc dù lê bước khó khăn nhưng vẫn cố lết đi khi trong nhà Má tôi và các chị và em còn đang ngủ ngon. Tôi rời khỏi nhà mà nước mắt cứ chảy giàn giụa, vì cũng còn rất thương Má, các chị và em út, nhưng vì bị đánh đau quá chịu không nổi, hốt hoảng nên bắt buộc phải ra đi!

Khi ra đi khỏi nhà rồi mới biết gia đình dù sao vẫn là tuyệt vời, còn có nhiều hạnh phúc mà nơi khác không có… nhiều ngày tôi đi lang thang ngoài đường, bị đói và khát, lúc đó mới thấm thía khi ở nhà có cơm có nước mà ăn uống, có chỗ ngủ nghỉ… có dịp tới trường học gặp thầy cô và bạn bè… nhiều ngày lang thang đói khát nơi thành phố Sài Gòn, một vài người cho tôi ăn bánh mì xong no nê thế là anh Năm kêu tôi làm bậy… tôi đã từ chối quyết liệt. Biết không sai khiến tôi làm chuyện sai quấy được, thế là anh Năm bỏ tôi vào một đêm khuya. Khi thức dậy tôi đi tìm anh mãi để xin lổi, nhưng tìm không ra, thế là trận đói khát kế tiếp lại đến! Quá bế tắc và đau khổ không còn cách nào khác thế là tôi tìm cách về lại Bến Tre với Ba, hy vọng để hết khổ. Khi đến Bắc Rạch Miễu Thầy Hoằng Nhơn đã đợi tôi từ lâu, rồi Thầy cứu đời tôi. Cuộc gặp gỡ này là cả một sự mầu nhiệm, phải người có sự tu tập thì mới hiểu được phần nào sự huyền bí của vũ trụ. Có dịp tôi sẽ kể thêm về sự gặp gỡ kỳ diệu này.

Tôi gặp Thầy Hoằng Nhơn, thầy cho tôi uống thuốc, những cây thuốc quý trồng nơi vườn chùa, chữa hết tất cả mọi bệnh tật và truyền dạy cho tôi nhiều mật pháp, thế là tôi lấy lại niềm tin vào cuộc đời. Có thể nói gặp được bậc chân sư này là cả một phúc đức và may mắn lớn cho cuộc đời tôi. Thầy đã huấn luyện, dạy tôi nhiều mật pháp để được thành công và hạnh phúc mà tôi nghĩ không tìm được ở nơi nào khác. Sau khi học hành tốt nghiệp tạm xong, tìm được việc làm tốt và có cuộc sống an vui hạnh phúc và trong vòng đời danh vọng nhiều cạm bẫy, nhiều quyến rũ trần gian, tôi vẫn là một con người bình thường và rất trần tục như bao chúng sanh khác. Nhiều lúc vì bã danh lợi nên tham sân si cứ tăng dần. Nhiều lúc vì vô minh che lấp tưởng chừng đã dính vào những điều tội lỗi và thất đức, nhưng nhờ sự kính trọng và lời dạy mật pháp của bậc chân sư, thế là tôi đã làm được một vài điều phúc đức trong đời này.

Tôi rất quý mến và chân thành giúp đỡ những học trò nào thành tâm và thành thật, sống có lý tưởng, như Sư Phụ Hoằng Nhơn đã quý mến và giúp đỡ tôi một cách chân thành, không vụ lợi. Tôi đã làm như vậy như Thầy đã dạy. Tôi kính quý sư phụ tôi thôi, thế mà ngày nay có cả ngàn học trò đệ tử khắp nơi trên thế giới kính quý tôi. Nhiều anh chị em đã hùn tiền nhau lại làm một tòa nhà với 108 phòng để tặng riêng tôi, trong ấy có ba phòng đặc biệt để tôi ở và làm việc, nhưng tới giờ phút này tôi chưa bao giờ dám vào ở trong những phòng ấy, vì tôi sợ tổn đức. Vì tôi nghĩ việc thiện tôi làm chưa được là bao nhiêu, nếu không khéo để người ta cung kính bái lạy và thọ dụng tặng phẩm cúng dường của họ thì sẽ bị tổn đức như Thầy tôi đã dạy.

Anh chị em học trò đệ tử quý mến tôi họ đã không hài lòng thái độ không dám nhận lãnh và thụ hưởng tặng phẩm của họ. Tôi biết vậy, nhưng đành chịu chứ không sao thay đổi quan điểm của tôi được. Vì tôi vẫn còn có thể đi làm mướn, đi dạy học có tiền để sống từ sức lao động của mình thì làm sao tôi lại thọ dụng sự hiến cúng của họ? Có nhiều vị học trò khuyên tôi không nên đi dạy học hoặc làm việc nữa, để thời giờ tu tập và hướng dẫn họ tu tập, mỗi người một tháng tặng tôi một đồng dư để tôi sống và làm việc, tôi cũng từ khước, vì tôi luôn theo lời dạy của sư Phụ tôi: nếu mình tu hành không đủ phước đức mà thọ dụng từ sự cúng dường của người khác thì có thể mất phước và phải trả quả báo lớn lao, như trường hợp tôi đã trả quả báo với ông Bảy tại Đất Phật. Chuyện quả báo này tôi phải trả ngay sau đó chỉ vài tháng tại Việt Nam Phật Quốc Tự, Buddha Gaya, Bihar, India.

Tôi khuyên anh chị em học trò đệ tử, nếu họ kính quý tôi thì ráng tu hành và làm nhiều điều phước đức, ngay trong cuộc đời này. Tôi rất xúc động và tri ân các anh chị em học trò đệ tử đã giúp đỡ tôi rất nhiều việc cho hòa bình Nepal, xây dựng hai ngôi chùa Việt nam tại Ấn Độ và Nepal, xây cầu tình thương, đắp đường tặng quà người nghèo, đặt biệt họ làm cho tôi tòa nhà 108 phòng, cũng như hỗ trợ rất tích cực cho tôi làm nhiều việc phước đức khác. Như tôi đã nói, tôi quý một vị chân sư, một vị thầy, mà ngày nay có bao nhiêu là học trò đệ tử trên thế giới giúp đỡ và hỗ trợ tôi trong nhiều việc làm phúc đức. Chuyện này quả thật có nhiều điều nhiệm mầu, đúng như lời Phật và các bậc chân sư dạy: Nhân nào thì quả đó, và ôngbà cha mẹ chúng ta thường hay nói đi nói lại nhiều lần:“ở hiền gặp lành; ở ác gặp ác”, hay như ngạn ngữ bình dân:“ác lai thì ác báo”

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/01/2018(Xem: 4487)
40 Năm Ở Mỹ, sách của TT Thích Từ Lực
11/01/2018(Xem: 5128)
Vào những năm đầu của thập niên 2000, khi cây bút đang còn sung sức, tôi viết rất nhiều bài về danh lam thắng cảnh trên quê hương Nha Trang của mình để giới thiệu trên các báo và tạp chí khắp đất nước. Trong số đó, hiển nhiên là có bài viết về ngôi chùa đã lưu nhiều hình ảnh, dấu ấn kỷ niệm vào ký ức tuổi thơ của tôi với tên gọi thân quen mộc mạc: “Chùa Núi Sinh Trung”.
08/01/2018(Xem: 11429)
Hồi còn tại thế xưa kia Trên đường giáo hóa Phật đi qua làng Ngài đi cùng ông A Nan Khai tâm gieo ánh đạo vàng giúp dân. Đang đi ngài bỗng dừng chân Bước quanh lối khác có phần xa thêm Ông A Nan rất ngạc nhiên Vội lên tiếng hỏi. Phật liền giảng ra: "Này A Nan phía trước ta Có quân giặc cướp thật là hiểm nguy Sau ta ba kẻ đang đi Gặp quân giặc đó khó bề thoát qua!"
08/01/2018(Xem: 9613)
Ở bên Ấn Độ thuở xưa Nơi thành Xá Vệ, buổi trưa một ngày Gia đình kia thật duyên may Phật thương hóa độ, dừng ngay tại nhà, Tiếc thay chồng vợ tỏ ra Tham lam, độc ác, xấu xa, hung tàn. Hóa thành một vị đạo nhân Phật đi khất thực dừng chân trước thềm Ôm bình bát, đứng trang nghiêm, Anh chồng đi vắng, vợ liền nhảy ra Tay xua đuổi, miệng hét la
07/01/2018(Xem: 7804)
Sau mỗi lần có dịp viếng thăm các chứng tích như tượng đài, lăng mộ, viện bảo tàng, nhà lưu niệm, ..., của những nhân vật mà cuộc đời phần nào liên quan đến đời sống vật chất hay tinh thần, sự thịnh suy ,... của một nhóm người, một dân tộc, một vùng, một quốc gia,..., tôi ra về lòng những bâng khuâng với hai câu : Những người muôn năm cũ Hồn ở đâu bây giờ ? trong bài thơ Ông Đồ của nhà thơ Vũ Đình Liên.
21/12/2017(Xem: 3820)
Anh sinh ra và lớn lên ở miền gió cát khô nóng Phan Rang. Là một Phật tử thuần thành, lại được phước báu khi có đến hai người con trai xuất gia, nên nhân duyên đưa đẩy đã trở thành đạo hữu của tôi qua nhiều lần hội ngộ lạ lùng ở các thiền viện thuộc dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử. Kết tình đạo hữu với nhau đã gần mười năm rồi, mỗi lần gặp mặt, tôi và anh đều tay bắt mặt mừng, trò chuyện thân mật, nhưng người huyên thiên lúc đàm đạo là anh, còn tôi thì cứ chỉ biết gật gù, mỉm cười, họa hoằn lắm mới buông một đôi câu phụ họa. Anh quý mến tôi ở điểm đó.
15/12/2017(Xem: 6377)
Hương Lúa Chùa Quê" Bản Tình Ca Quê Hương của nhị vị Hòa Thượng Thích Bảo Lạc và Thích Như Điển. Sau khi đọc tác phẩm “Hương Lúa Chùa Quê” chúng con không dám mong ước giới thiệu sự nghiệp văn học, văn hóa cả đạo lẫn đời của nhị vị Hòa Thượng. Vì công trình tạo dựng sự nghiệp của các bậc xuất sĩ không nằm trong “nguồn văn chương sáng tác”. Vì xuyên qua mấy chục năm hành đạo và giúp đời, nhị vị đã xây dựng nhiều cơ sở Phật giáo đồ sộ trên nhiều quốc độ khác nhau như: chùa Pháp Bảo tại nước Úc; chùa Viên Giác và Tu viện Viên Đức tại nước Đức. Nhị vị cũng đã mang ánh Đạo vàng đến khắp muôn nơi, soi sáng cho bước chân “người cùng tử” được trở về dưới mái nhà xưa, để thấy lại “bóng hình chân nguyên”; dẫn đường cho những người chưa thể “tự mình thắp đuốc lên mà đi” được tìm lại “bản lai diện mục”. Đó mới gọi là “sự nghiệp” của bậc xuât sĩ. Điều nầy đã có lịch sử ghi nhận từ mạch nguồn công đức biểu hiện và lưu truyền.
15/12/2017(Xem: 87614)
Trải hơn 25 thế kỷ, Chánh Pháp của Phật vẫn được tuyên dương và lưu truyền bởi hàng đệ tử xuất gia lẫn tại gia, đem lại giải thoát và giác ngộ cho những ai học hỏi và thực hành đúng đắn. Chánh Pháp ấy là thuốc hay, nhưng bệnh mà không uống thì chẳng phải là lỗi của thuốc. Trong kinh Di Giáo, đức Phật cũng ân cần huấn thị lần chót bằng những lời cảm động như sau: “Thể hiện lòng đại bi, Như Lai đã nói Chánh Pháp ích lợi một cách cứu cánh. Các thầy chỉ còn nỗ lực mà thực hành… Hãy tự cố gắng một cách thường trực, tinh tiến mà tu tập, đừng để đời mình trôi qua một cách vô ích, và sau này sẽ phải lo sợ hối hận.” Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người. Ước mong giáo pháp của Phật sẽ được lưu chuyển qua những trang báo nhỏ này, mỗi người sẽ tùy theo căn tánh và nhân duyên mà tiếp nhận hương vị.
29/11/2017(Xem: 6656)
Trong loạt bài Kể Chuyện Đường Xa lần này, người viết đặt thêm tên cho mục này Vòng Quanh Thế Giới, để có cùng tên với loạt phóng sự sẽ đưa lên tvtsonline.com.au với nhạc hiệu mở đầu của bài “Vòng quanh thế giới” người viết sáng tác gần bốn thập niên trước đây. Từ năm 1990, chúng tôi đã bắt đầu viết bút ký với chuyến đi Bangkok (Thái Lan) và loạt bài cuối cùng là chuyến du lịch Âu Châu vào năm 2015.
27/11/2017(Xem: 4900)
Nếu chấp nhận thuyết nhân duyên của Đạo Phật thì có thể dễ dàng, giải thích cho mọi tình huống và mọi sự việc xảy ra trong cuộc đời nầy. Nhân duyên hay duyên sanh cũng tương tự với nhau. Đó là: „Cái nầy có cho nên cái kia có; cái nầy sanh cho nên cái kia sanh. Cái nầy diệt, cho nên cái kia cũng diệt theo“. Không ai trong chúng ta có thể biết trước được việc gì sẽ xảy đến cho mình về sau nầy cả; dầu cho chúng ta có cố gắng làm mọi việc tốt đẹp trong hiện tại; nhưng dư báo trong quá khứ, ai biết được thiện, ác còn lại bao nhiêu mà lường được. Chỉ khi nào nắp quan tài đậy lại trong kiếp nầy, thì lúc ấy ta mới biết được cái quả trong hiện tại là cái nhân như thế nào mà trong quá khứ của chúng ta đã gây ra và chính cái quả của ngày hôm nay sẽ là cái nhân cho ngày sau nữa.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]