Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

6. Việc lành dẫn đến duyên lành

24/04/201109:25(Xem: 7932)
6. Việc lành dẫn đến duyên lành

CON ĐƯỜNG SÁNG
(SỰ THẬT NHÂN QUẢ)
Thích Huyền Diệu

VIỆC LÀNH DẪN ĐẾN DUYÊN LÀNH

Thời kỳ sau khi tôi tốt nghiệp đại học và có việc làm ổn định, một sự việc đặc biệt xảy ra đã tác động đáng kể đến cuộc đời của tôi sau này.

Lúc bấy giờ do nhớ đến công ơn vị ân sư, tôi mong ước mời thầy Hoằng Nhơn đi một chuyến du lịch vòng quanh thế giới. Hai hãng máy bay Panam của Mỹ và Qantas của Úc có chương trình hợp tác tổ chức tour cho khách đi du lịch vòng quanh thế giới với ghế ngồi hạng nhất, mỗi chặng dừng chân đều có xe Mercedes hoặc Rolls Royce đón tận phi trường đưa về ở tại khách sạn 5 sao. Tất cả chi phí chuyến đi bao gồm cả ăn uống và di chuyển vào khoảng hơn 21 ngàn đô la Mỹ, cách đây gần 30 năm đó là một khoản tiền khá lớn.

Thế nhưng không ngờ Thầy tôi biên thư từ chối mà nói rằng:

- “Thầy rất cảm động trước lòng tốt của con, nhưng thật ra Thầy đã có dịp đi nhiều nơi trong nhiều đời rồi. Nếu quả con thương Thầy thì hãy dùng số tiền đó giúp đỡ chúng sanh, như vậy là đã trả ơn cho Thầy”.

Đọc thư Thầy tôi xúc động chảy nước mắt. Những năm ấy đất nước mới hòa bình nên còn rất nhiều khó khăn. Tôi hỏi thăm Thầy cách thức gửi quà cáp, thuốc men về nước nhưng Thầy từ chối tất cả và còn yêu cầu tuyệt đối không được gửi. Thầy nhắc lại lời dạy trước đây: “Nếu thương quý Thầy nên làm những việc tốt giúp đời và tuyệt đối tránh không làm điều sai quấy”.

Xúc cảm trước tấm gương của Thầy, tôi phát tâm nguyện rằng từ đây cho đến cuối đời, hễ mỗi khi hướng dẫn bất kỳ ai tu tập, học hỏi về giáo lý, thiền định, nói chung tất cả những vấn đề về tâm linh tôi tuyệt đối không nhận tiền.

Người Âu Mỹ vốn rất sòng phẳng, mỗi khi theo học về giáo pháp họ đều đề nghị trả công đầy đủ, thậm chí hậu hĩ. Nhưng sau khi phát tâm nguyện làm theo lời dạy của ân sư, tôi từ chối không nhận thù lao như trước nữa. Điều này khiến những người theo học tôi rất ngạc nhiên, khi nghe tôi giải thích ngọn nguồn thì họ đều xúc động.

Tại Âu Mỹ rất nhiều người giàu có đồng thời cũng không ít những người mang trong lòng niềm đau khổ vô biên. Đây là một tâm trạng khá phổ biến trong xã hội văn minh tiến bộ ngày nay. Căn bệnh tinh thần này không thuốc gì chữa khỏi nên mọi người thường hướng đến niềm tin tâm linh để tìm sự giải thoát.

Tôi may mắn được ân sư truyền dạy bí quyết giữ cho mình luôn sống một cách an lạc, vì vậy rất nhiều người đến xin thọ giáo phương pháp tu tập tìm sự bình yên trong tâm hồn. Thật ra chẳng qua họ là những người đang vác tảng đá nặng trên vai đi trong cuộc đời, nếu biết cách vứt bỏ sẽ thấy nhẹ nhàng hơn nhiều. Thế nhưng muốn vậy cũng phải làm cách nào cho đúng, chứ nếu loay hoay để cho tảng đá rơi ngay chân mình chỉ càng thêm thương tật mà thôi.

Tâm những người ấy tựa như một tấm kính bao nhiêu năm trời bị lớp bụi vô minh che lấp, nay tôi chỉ cần hướng dẫn họ cách thức dùng khăn lau sạch để lộ ra bản lai diện mục sáng ngời bên trong thì mọi đau khổ sẽ chấm dứt.

Trước đây nhiều người đặt mục đích sống ở đời là tìm cách kiếm cho được nhiều tiền, hoặc lao vào con đường danh vọng với những bậc thang phải trèo lên mãi mà không có điểm dừng. Nay một khi tâm đã thức tỉnh, họ quán chiếu mọi sự và nhận ra những thứ ấy chẳng qua chỉ là phương tiện chứ không phải là mục đích trong cuộc sống. Từ đó mà tìm lại được sự bình an trong tâm hồn.

Một số anh em kiên trì thực tập và đạt được thành công. Vui mừng về kết quả đạt được, nhiều người ngỏ ý muốn đền ơn bằng tiền bạc nhưng tôi một mực từ chối. Là một người tầm thường như bao nhiêu người khác, nên tôi không phải không có những lúc yếu lòng. Có những thời kỳ lâm vào cảnh túng bấn, gặp đúng dịp các môn sinh gửi biếu năm mười ngàn đô la, một khoản tiền hoàn toàn không nhỏ khiến đôi khi tôi cũng băn khoăn. Nhưng đó chỉ là một cảm giác thoáng qua và tôi mong mỏi giữ được lời hứa của mình cho đến khi nhắm mắt lìa đời.

(Ngay cả mỗi khi về nước hễ nơi nào mời đến nói chuyện về tâm linh tôi luôn sẵn sàng và không bao giờ nhận tiền. Nhưng nơi nào đề nghị trao đổi về kinh nghiệm trong việc kinh doanh hay giao tiếp quốc tế đều phải trả công cho tôi sòng phẳng tương xứng với công sức lao động bỏ ra).

Năm này qua năm khác, hễ bất kỳ nơi nào cần hướng dẫn tu tập tôi đều không nề hà vì nghĩ rằng mình chỉ bỏ ít thì giờ mà có thể giúp được nhiều người thoát khỏi đau khổ. Cứ thế mà tôi đi khắp nơi từ Mỹ, Úc, Anh, Ý, Hòa Lan, Thụy Sĩ, kể cả Mêhicô, Argentina, qua cả châu Phi như Côte d’Ivoire, Zair, Nam Phi… Gặp những tháng hè rảnh rỗi tôi chịu khó bỏ hết công việc giúp cho anh em. Họ lo vé máy bay và việc ăn ở cho tôi, nhưng thật ra nơi nào không có điều kiện tôi vẫn có thể tự túc được.

Trở lại với các anh em mà tôi từng hướng dẫn sang đất Phật trước đây, liên tiếp mấy năm sau nhóm chúng tôi đều tổ chức đi sang Ấn Độ và Nepal để hành hương chiêm bái. Tuy nhiên, nếu trước đây tôi đưa mọi người đi với tư cách gần như là một hướng dẫn viên du lịch thì bây giờ họ lại tỏ thái độ một mực kính trọng. Vì thế đâm ra có khoảng cách, điều này quả thật khiến cho tôi không cảm thấy thoải mái nhưng chẳng biết làm sao hơn. Họ coi tôi như một bậc thầy và luôn chăm chú lắng nghe những điều tôi trao đổi về các cách tu tập. Những gì tôi học được ở vị thầy của mình trước đây thì nay tôi đem ra chia sẻ với họ.

Đến năm thứ ba, một lần khi mọi người đang ngồi dưới cội bồ đề bỗng nhiên anh em đưa ra đề nghị:

- Thưa thầy, hầu hết các nước đều đã xây dựng chùa ở Bồ Đề Đạo Tràng mà tại sao Việt Nam lại không có? Lần nào sang đây thầy trò cũng phải ăn nhờ ở đậu tại chùa Miến Điện. Tại sao chúng ta không nghĩ đến việc xây dựng một ngôi chùa Việt Nam tại đất Phật?

Tôi trả lời:

- Đây chính là điều tôi tha thiết muốn làm nhưng hoàn toàn không đủ khả năng. Sở dĩ các nước khác làm được là vì chính phủ họ bỏ tiền ra, còn tôi cũng như các anh em, tiền lương dạy học rất khiêm tốn làm sao đủ sức xây dựng nổi một ngôi chùa.

Họ đồng thanh trả lời:

- Thầy đừng lo. Mấy năm nay chúng con đã theo học với thầy, nay anh em xin được góp sức giúp thầy đạt ý nguyện.

Tôi thận trọng nhắc nhở:

- Các anh đừng quên đang đưa ra lời hứa dưới cội bồ đề linh thiêng. Nếu vị nào không giữ lời e rằng phải đầu thai kiếp khác để trả cho xong.

Sau lần đó, chúng tôi chia tay nhau mỗi người một ngả, người về nước Ý, kẻ về Úc, Pháp, Áo, Tân Tây Lan và tôi cũng quên đi câu chuyện trao đổi ấy.

Không ngờ anh em nhất quyết thực hiện lời hứa, người có đất bán đất, có xe bán xe, mỗi người gom góp một ít tùy theo khả năng rồi trao hết cho tôi. Lúc bấy giờ tôi đang ở tại Paris. Người mang tiền đến chính là giáo sư Durant, vừa là thầy lại vừa là cấp trên của tôi. Thông thường bên châu Âu hễ sếp muốn gặp nhân viên thì cho gọi tới chứ hiếm khi nào họ đến chỗ cấp dưới. Nhưng lần đầu tiên sau bao nhiêu năm làm việc chung với nhau, giáo sư thân chinh đến gõ cửa phòng làm việc của tôi và trao tận tay số tiền gói trong tờ báo Le Monde. Ông trịnh trọng nói:

- Thưa thầy, đây là số tiền anh em gửi biếu thầy để bắt tay vào việc xây chùa.

Sau đó chúng tôi phải đi dự một hội nghị tại Nhật Bản, giáo sư Durant đặc phái tôi sang Tokyo chuẩn bị trước một số công việc, rồi ông ký giấy cho nghỉ phép để tôi có thể bay thẳng từ Nhật sang bang Bihar của Ấn Độ xúc tiến việc tìm mua đất.

Khi cầm trong tay khoản tiền đầu tiên tôi vô cùng xúc động, đồng thời lại hết sức lo lắng vì cảm thấy trách nhiệm quá nặng nề. Nghĩ lại mới thấy chính nhờ tôi giữ đúng lời phát nguyện – xuất phát từ tình cảm đối với vị ân sư – mà từ đó bao nhiêu duyên lành đã đến với mình. Đây chính là một điều mầu nhiệm mà bản thân tôi đã chiêm nghiệm được trong chính cuộc đời này.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/12/2014(Xem: 3770)
T huở nhỏ tôi mồ côi bố sớm, ở vào cái tuổi con nít vừa mới chập chững biết đi chưa nói được câu gọi bố lần đầu, bố tôi đã đi về miền cát bụi. Sự ra đi của ông đột ngột quá, còn trẻ quá mới 27 tuổi đầu làm sao không để lại bao luyến tiếc cho người ở lại. Dĩ nhiên mẹ tôi là người chịu nhiều đau đớn nhất, mới lấy chồng được hai năm cộng thêm đời chiến binh nên chỉ ở gần chồng vỏn vẹn có một tháng là nhiều. Con thơ còn bế ngửa trên tay, đầu quấn khăn tang người chồng yêu quí, đã phải xách tay nải leo lên chiếc thuyền viễn xứ nhổ neo lên đường như một bài hát nào đó.
01/12/2014(Xem: 13361)
Nguyên gốc tác phẩm này là của Genro, một Thiền sư thuộc tông Tào động Nhật Bản, viết và xuất bản năm 1783. Mỗi câu chuyện là một công án mà tác giả đã có lời bình và kệ đi kèm. Fugai, người thừa kế Genro, thêm nhận xét của sư, câu đối câu, vào sách của thầy. Tôi sẽ dịch các câu chyện hay tắc, gồm cả lời bình của Genro và nhận xét của Fugai trong hầu hết các câu chuyện để tham khảo. Có khi gặp bài kệ cũng dịch để khuyến khích học tập.
28/11/2014(Xem: 4389)
Tôi và cả vợ tôi nữa, hình như mấy ngày hôm nay, lòng lúc nào cũng tràn ngập niềm vui, hạnh phúc vô cùng! Chuyện chẳng có gì to tát lắm đâu mà sao chúng tôi vui mừng đến vậy. Tối thứ bảy vừa qua, sau khi tắt đèn, mở cửa phòng đi tìm nước uống chuẩn bị đi ngủ, tôi phát hiện ngay trước cửa phòng một túi quà nhỏ, món quà nhỏ bé của các con tôi, với một tờ giấy võn vẹn sáu chữ "Happy 40th year from your children". Chỉ với sáu chữ võn vẹn đó...đã khiến vợ chồng tôi ngẩn ngơ, quên đi hai chiếc đồng hồ tuyệt đẹp trên tay vợ tôi! Vợ tôi thì xúc động lắm, còn tôi, miệng thì luôn hỏi sao tụi nó lại nhớ đến ngày cưới của mình, nhưng lòng lại mơ màng nghĩ về những ngày này của 40 năm trước...Tôi cưới vợ!
16/11/2014(Xem: 5234)
Sau khi kết hôn hai năm, chồng tôi bàn với tôi đón mẹ lên ở chung để chăm sóc bà những năm tuổi già.Chồng tôi mất cha từ ngày anh còn nhỏ, mẹ chồng tôi là chỗ dựa duy nhất, mẹ nuôi anh khôn lớn, cho anh học hết đại học. “Khổ đau cay đắng” bốn chữ ấy vận đúng vào số phận mẹ chồng tôi! Tôi nhanh chóng gật đầu, liền đi thu dọn căn phòng có ban công hướng Nam, phòng có thể đón nắng, trồng chút hoa cỏ gì đó.Chồng tôi đứng giữa căn phòng ngập tràn nắng, không nói câu nào, chỉ đột ngột bế bổng tôi lên quay khắp phòng, khi tôi giãy giụa cào cấu đòi xuống, anh nói: “Đi đón mẹ chúng ta thôi!”.
15/11/2014(Xem: 11006)
Không và Có tương quan mật thiết với nhau như bóng với hình. Có bao nhiêu cái có thì cũng có bấy nhiêu cái không. Nếu cái có vô cùng vô tận, thì ...
14/11/2014(Xem: 4842)
Tại một ngôi trường tiểu học trong một thị trấn nhỏ ở Hoa Kỳ hôm nay là ngày đầu tiên khai giảng cho năm học mới. Cô Thompson là giáo viên phụ trách dạy lớp Năm. Cô giáo đứng trước các học sinh trong lớp học của mình và tương tự như các giáo viên khác, cô cũng nhìn khắp lượt vào các em học sinh và nói là cô sẽ thương yêu tất cả các học trò của cô như nhau, không có sự phân biệt nào cả. Cô đã nói với các đứa trẻ này điều đó, một điều mà cô tự biết là không thật lòng và cô biết là mình sẽ không thực hiện được.
08/11/2014(Xem: 6190)
Người đàn bà ngồi tựa vào tường trên lối mòn của một con hẻm. Mệt mỏi và thiếp đi cạnh quang gánh của mình. Hai đầu gánh là đủ thứ quà vặt như bánh tráng, kẹo, đến chanh, ớt… rồi có cả đồ chơi trẻ con chằng cột. Chị như muốn kéo cả thế giới chung quanh đi theo mình trong cuộc mưu sinh nhọc nhằn không có ngày tháng cuối.
07/11/2014(Xem: 7623)
Tại sao lại là những bài học bình dị? Vì những câu truyện ở đây sẽ chỉ ra cho các em thấy được những bài học đạo đức rất gần gũi trong cuộc sống...
07/11/2014(Xem: 32472)
Nói "Chùa Khánh Anh sau 30 năm" có nghĩa là đã bắt đầu bước sang năm thứ 30+1... Thật vậy, chùa Khánh Anh bắt đầu sinh hoạt từ Lễ Phật Đản 1974, tức 1 năm trước biến cố lịch sử 30/4/1975. Tại sao lại không phải là sau ngày 30/4/75 như nhiều nơi khác, và nhiều chùa khác ở hải ngoại? Thưa quý vị và bà con cô bác, đó mới là có chuyện để kể lại. Và cái đoạn này có nhiều chuyện để kể lắm. Nghĩa là nguyên nhân do đâu, và từ bao giờ đưa đến việc thành lập chùa Khánh Anh trước năm 75 và sinh hoạt cho đến ngày hôm nay?
01/11/2014(Xem: 5529)
Trước 1975, tôi là một phi công Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa. Tôi qua Mỹ từ ngày mất nước, khi tuổi đời vừa mới 25. Mang tiếng pilot bay bướm nhưng tôi không có lấy một mảnh tình, bởi vì tôi không có tài tán gái. Thời đó mặc dù phụ nữ Việt nam cao giá, mấy thằng bạn không quân lanh lẹ vẫn vớt được một cô vợ Việt. Tôi khù khờ, vài năm sau đành yên bề gia thất với một thiếu nữ Mỹ tuổi đôi mươi. Hồi mới cưới, cuối tuần tôi thường dẫn Carrol hội họp bạn bè, nhưng nàng cảm thấy lạc lõng giữa đám người Việt bất đồng ngôn ngữ và từ chối những buổi họp mặt. Xuất giá tòng thê, mất liên lạc với đám bạn cũ, tôi hoàn toàn hội nhập vào đời sống Mỹ. Khi đứa con gái lên 5, chẳng may Carrol bị bịnh thận. Căn bịnh quái ác kéo dài hành hạ nàng hơn 20 năm và nàng qua đời vào thời gian đứa cháu ngoại vừa tròn 3 tuổi. Gần 2 năm qua, nỗi buồn mất người vợ Mỹ tuy đã nguôi ngoai nhưng tôi vẫn giữ thói quen sống không bè bạn, vẫn âm thầm cô đơn chiếc bóng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]