Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

5. Những câu chuyện kể về nhân quả

24/04/201109:25(Xem: 7872)
5. Những câu chuyện kể về nhân quả

CON ĐƯỜNG SÁNG
(SỰ THẬT NHÂN QUẢ)
Thích Huyền Diệu

NHỮNG CÂU CHUYỆN KỂ VỀ NHÂN QUẢ

DÙNG SÚNG BẮN VÀO CHÙA

Chuyện này do anh Nguyên, phó viện trưởng đại học Tây Nguyên và Đại Học Tổng Hợp kể tại sân thượng Việt Nam Phật Quốc Tự - India, khi đoàn đang uống trà vào lúc 16 giờ 30 ngày 12 tháng 11 năm 2010.

Vào những năm 1977-1978 Tây Nguyên vẫn chưa yên hẳn vì mặt trận Fulro và 1 số lính cách mạng vẫn còn đang hoat động. Sau thời kỳ chiến tranh một số lính đi tuần, mỗi khi đi ngang qua chùa miếu là các anh hay xả đạn bắn bừa vào chùa chiền nơi linh thiêng, một phần là do thú vui, một phần vì sợ có kẻ núp trong đó. Một số sĩ quan chỉ huy có tâm khuyên không nên bắn súng vào những nơi linh thiêng tâm linh đó, khi được khuyên thì các chú lính trẻ cũng dạ dạ vâng vâng… nhưng khi không có các cấp trên đi chung thì họ vẫn xả súng bắn vào chùa, miếu, bắn rồi cười đùa rồi cho đó là chỗ thờ Phật, Trời mê tín dị đoan.

Sau khi mặt trận Fulro ở Tây Nguyên hoàn toàn tan rã, các chú lính này được trở về đời sống thường dân, một số thì được thăng chức, một số thì được cử vào các công sở ban nganh khác. Khoảng 10 năm sau, anh Nguyên nhớ lại những đồng đội, anh đến thăm họ. Than ôi, từng người lần lượt đã chết trong những tai nạn thảm thiết không sao ngờ đến được, nhắc đến rất đau lòng. Ông bà xưa đã dạy nhân nào quả đó, gieo gió thì gặp bão.

PHÁ ĐÌNH CHÙA MIỄU BỊ CHẾT THÊ THẢM

Câu chuyện này được kể vào lúc cùng đoàn các nước uống trà ngắm hoàng hôn tại Việt nam Phật Quốc Tự - India vào lúc 10 giờ ngày 12 tháng 11 năm 2010.

Anh Hùng sinh ra và lớn lên tại Hà nội, anh đã chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử nơi đất Thăng Long nghìn năm này. Sau khi Hà Nội được giải phóng, một số người đã hiên ngang đập phá chùa chiền, những nơi tôn nghiêm thờ phượng, họ còn chiếm luôn đất chùa làm của riêng. Rồi năm tháng trôi qua, anh Hùng đã quan sát thật kĩ những con người một thời đã từng tham gia đập phá chùa chiền, tất cả điều bị chết trong những tai nạn thật khủng khiếp. Tai nạn xảy ra hết sức lạ lùng mà mọi người không ngờ là như vậy.

Như có người đi qua cầu thì bị gãy, rồi bị cây nhọn đâm chết giống như cá bị đâm để nướng. Cây cầu này hằng ngày có hàng trăm người qua lại mà chẳng có ai bị chết, chỉ có anh này đi qua thì lại xảy ra tai nạn kinh hoàng như vậy.

Còn những người chiếm đất chùa đem bán cho kẻ khác kiếm được rất nhiều tiền cuộc sống trở nên giàu có phong lưu thì một ngày kia như thường lệ họ đi tập thể dục, bách bộ trên hè phố, không biết vì lí do gì có một chiếc xe tải mất tay lái lao lên trên hè phố cán chết 2 ông bà đứt cả đầu, nhưng thân thể vẫn còn nguyên vẹn không bị gì hết. Gia đình này lại phải gánh chịu thêm một bi kịch nữa, tang lễ bố mẹ chưa xong thì con cái của ông bà này vì tranh giành của cải tài sản mà đánh nhau dữ dội khi quan tài chưa được an táng. Những người dân ở gần nhà thì cho rằng họ phải trả quả báo trong đời này không cần đến đời sau vì gây quá nhiều nghiệp quả, nhất là việc đi chiếm đất chùa rồi bán.

TRẢ NGHIỆP SÁT SANH

( Lời kể của Ni Sư Giác Liên, Trụ trì chù Phước Hải, Vĩnh Long)

Năm 1958, có cậu Hiếu bị tật bẩm sinh, mặt đưa ra phía sau lưng, đầu lắc lư, tay chân cong quẹo không đi được, bò lết tại chợ Trà Vinh ăn xin. Lạ một điều là ngày nào cậu cũng khóc la: Bà con ơi, đừng sát sanh! Tôi là con bò nè …! Người ta giết tôi, dòng họ tôi chết hết rồi … Tiếng khóc của cậu rống lên như bò bị thọc huyết.

Rất nhiều người biết lai lịch của cậu Hiếu. Ông nội của cậu ở Ba-si, Ba-xe thuộc tỉnh Trà Vinh chuyên nghề làm thịt bò bán ở chợ, giàu có dư ăn. Có một ngày ông cột con bò cái định khuya làm thịt, mai bán chợ sáng. Ngay đêm hôm đó ông mơ màng thấy người đàn bà đến khóc nói: xin ông đừng giết tôi, để tôi sinh con rồi ông hãy giết.

Đêm ấy ông thấy hiện tượng ấy 3 lần, ông nói cùng vợ. Bà khuyên ông không nên làm thịt con bò này, nhưng ông không nghe. Khuya hôm đó, như thường lệ, ông đập đầu con bò. Con bò này la lớn hơn những con bò trước, nó chống cự, giãy giụa đến đứt dây thừng, và đến khi gần chết, đầu nó cứ mãi lắc lư.

Cũng ngay đêm hôm đó, con dâu ông sinh đứa cháu nội trai dị tật: sứt môi, mắt lộ, đầu quay ra sau lưng, chân lại ở trước. Ông lo chạy chữa thuốc thang cho cháu tốn hao cả tài sản vẫn không hết. về phần gia đình ông thì cả nhà mang trọng bệnh kỳ lạ, sau đó chết hết. Tôi nghiệp đứa bé chỉ mới mười tuổi dị tật phải đi ăn xin, đầu cứ lắc lư, không quên tự xưng mình là Bò.

ÂM MƯU CHIẾM DỤNG TÀI SẢN CỦA NGƯỜI

( Lời kể của Ni Sư Giác Liên, Trụ trì chù Phước Hải, Vĩnh Long)

Ông Bảy là người giàu có ở Trà ôn. Đất của ông cò bay thẳng cánh. Ông góa vợ từ lâu, thường ra chợ Trà Ôn, kết thân cùng ông Tỷ bán tạp hóa. Ông Bảy thích vợ ông Tỷ, ông Tỷ biết ý ông Bảy nên bàn với vợ : “Ông Bảy đã 80 tuổi rồi, chẳng sống bao lâu, nếu em là vợ của ông ấy, khi ông ta chết, tất cả tài sàn của ổng sẽ là của em…”

Lúc đầu vợ ông Tỷ không thuận, nhưng vì chồng thiếu nợ ông Bảy quá nhiều, nên bà quyết định tạm xa chồng con một thời gian … để thực hiện mưu này.

Ông bà Tỷ đã thỏa thuận xong, sau đó lập mưu kế ra tòa ly dị. Tòa xử Bà Tỷ được chia gia tài là tiệm tạp hóa và có trách nhiệm nuôi con. Ông Tỷ thì được số tiền lớn và có cuộc đời tự do.

Như mưu kế đã lập, sau khi ly dị ông Tỷ, bà Tỷ được ông bảy cưới chính thức làm vợ. Đám cưới tổ chức rất linh đình, đãi tiệc suốt ba ngày ba đêm, lớn nhất Trà Ôn. Mời cả chính quyền địa phương tham dự. Bà con hàng xóm đi xem đám cưới rất đông, vì người đàn bà tái giá đặc biệt chỉ 40 tuổi lấy ông chồng giàu 80 tuổi.

Cưới được vợ, Ông Bảy phấn khởi hủy luôn số tiền mà ông Tỷ nợ trước kia. Bà Tỷ còn nói với ông Bảy là trả lại tiệm tạp hóa cho ông Tỷ để ông nuôi con, Bà có tự do hạnh phúc với ông Bảy.

Bảy ngày sau, thật không ngờ, bà Tỷ trúng gió chết. Mới đám cưới tiếp tục đám tang.

Tang lễ cho bà Tỷ xong, ông Bảy bắt đầu kiện ông Tỷ để lấy lại tiệm tạp hóa, vì ông Bảy bây giờ là chồng chính thức trên danh nghĩa của bà Tỷ. Tòa xử ông Bảy thắng kiện. Ông Bảy đến đến chợ Trà Ôn lấy lại tiệm tạp hóa, đuổi ông Tỷ ra ngoài!

Ông Tỷ mưu khá sâu nào ngờ sự việc đảo ngược, khí uất trào dâng, mất vợ mất luôn cửa tiệm, cha con lang thang khổ sở không có mái nhà che thân. Ông loạn tâm thần, lâu lâu lại đến đạp cửa tiệm tạp hóa và miệng nói nhảm mãi câu chuyện cùng vợ mưu tính của mình. Ông Tỷ cười khóc trong cơn điên loạn, và xin ăn tại chợ Trà Ôn cho đến khi chết. Câu chuyện quả báo này, vẫn còn được nhắc đi nhắc lại tại địa phương cho đến ngày nay.

SƯU TẬP DA THỊT…

Truyện này do chị Nga kể lại tại sân thượng VNPQT vào ngày 12/11/2010.

Chị làm việc trong một bệnh viện ở Hà Nội. Chị nhớ rất rõ, có một vị bác sĩ T. rất nổi tiếng, vị bác sĩ này chuyên ghép da mặt người này sang người khác rất thành công. Ông hay có thói quen là rất thích đi lột da của các trẻ sơ sinh đã chết hoặc những người đã chết. Ông tẩm thuốc rồi đem vào phòng lạnh để khi nào có người cần thì ông ghép, nhưng phải trả cho ông một số tiền hậu hĩnh, nhờ vậy ông có rất nhiều tiền và nhiều người biết đến không những ở Việt Nam mà nổi tiếng khắp nơi trên thế giới.

Gia đình ông sống rất hạnh phúc. Ông có được 1 đứa con gái vừa đẹp lại thông minh cũng nổi tiếng ở Hà Nội. Lúc Cô bé mới 13 tuổi chưa biết yêu là gì vậy mà không biết bao nhiêu chàng trai lớn nhỏ săn đuổi, tán tỉnh và chọc ghẹo. Một hôm trên đường đi học về nhà, cô bị một đám thanh thiếu niên chặn đường trêu ghẹo. Cô hốt hoảng định bỏ chạy thì trong đám có một thanh niên tạt vào mặt cô một chai axit, cô đau đớn bỏ luôn tập sách ngoài đường chạy khắp nơi trong làng kêu cứu. Dân làng nghe tiếng cầu cứu vội chạy tới xem thì bọn thanh thiếu niên kia đã trốn đi đâu hết. Thấy vậy bà con dân làng gọi xe đưa cô bé đến bệnh viện cấp cứu. Vào phòng cấp cứu các y tá, nhân viên làm trong bệnh viện mới phát hiện đó là đứa con gái duy nhất của vị bác sĩ T. đang nổi tiếng ở Hà Nội, cho nên tất cả nhân viên bác sĩ chăm sóc cô bé rất tận tình, sau đó thì gọi điện báo tin cho vị bác sĩ đó biết. Khi ông đến nơi, thấy con gái mình bị phỏng quá nặng ông chết lặng cả người, lập tức ông đưa con mình vào phòng đặc biệt, đem những tấm da tốt nhất mà ông gìn giữ từ lâu để ghép cho con gái mình. Việc cấy ghép không thành công lắm vì có chỗ ghép được còn có chỗ không thành, thế là ông đưa con gái mình đến những bệnh viện Âu Mỹ để chữa trị, mất rất nhiều thời gian và tiền của, nhưng con gái ông không thể bình phục được như xưa, nhất là tinh thần, cô bé sống trong nỗi sợ hãi, lo âu, trầm mặc. Hằng ngày cô bé phải gánh chịu từng cơn đau đớn do những nơi cấy ghép da mới mà không biết là da của ai thay vào. Có thể nói đó là một tai nạn to lớn đã đến với vị bác sĩ nổi tiếng ấy.

6 NGƯỜI CON GÁI CỦA VỊ LÃNH ĐẠO TÔN GIÁO

LÀM NGHỀ BÁN MÌNH

Chuyện này do cô Diệu An ở Pháp kể lại, nhân dịp phái đoàn tu tập ở Việt Nam Phật Quốc Tự - India từ ngày 01/11 đến 01/12/2010. Cô kể vào lúc 13h ngày 06/11/2010 tại VNPQT.

Sau ngày 30/04/1975 gần nhà cô Diệu An ở Phú Nhuận Sài Gòn, có Một gia đình sống kín đáo nhưng họ rất phong lưu. Gia đình có sáu người con gái đều đẹp và học giỏi. Sáu cô học một ngôi trường mà trước ngày 30/04/1975 chỉ có những người giàu có mới đủ điều kiện gửi con mình vào học, vì học phí rất cao, học phí đối với một học sinh còn cao hơn một viên chức hạng trung bình. Có thể nói gia đình họ phải có một gia tài lớn lắm !

Vào thời đó trai gái được đi học trường Tây nằm ngay trung tâm Sài Gòn có thể xem là người giàu có và có đạo đức. Những trường này nổi tiếng về cách đào tạo giáo dục khá kỹ lưỡng và chu đáo được chính phủ Pháp tài trợ từ lớp 1 đến 12, sau khi học sinh học xong trường này ra tìm việc rất dễ dàng vì các công ty luôn săn đón và mức lương cũng khá cao, còn học sinh nào học xong muốn tiếp tục con đường học tập thì đi ra nước ngoài học cao hơn. Phần lớn những người du học đều thành công tốt đẹp, chứ ít có ai học xong các trường này ra mà thất nghiệp cả. Học xong trường này bằng cấp rất có giá trị ở các nước Tây phương cũng như tương đương với bằng cấp của nước Pháp mà không cần phải thi lại.

Trở lại câu chuyện 6 người con gái gần nhà cô Diệu An. Khi cha các cô bị phát hiện là linh mục của nhà thờ ở Biên hòa Đồng Nai. Sự việc đó có một thời gian gây chấn động ầm ĩ ở Sài Gòn và vùng Biên Hòa, các con chiêng trong Đạo đã quyết liệt tố cáo và đòi trục xuất vị linh mục đó. Thế rồi nhờ sự khéo léo của giáo hội và tòa thánh, lần lần câu chuyện ấy cũng trôi vào lãng quên, 6 cô con gái chỉ sống với mẹ mà không thấy mặt cha, từ đó mọi người càng chú ý đến 6 cô hơn. Mỗi ngày mỗi cô càng lớn thì càng xinh đẹp hơn, cho nên thu hút rất nhiều chàng trai…Nhưng rồi mọi người trong xóm đều bàng hoàng kinh ngạc khi biết 6 cô này đều làm nghề bán mình hay người dân quê thường gọi là làm đĩ mà xã hội Việt Nam bao đời rất khinh khi. Câu chuyện thương tâm này mỗi ngày mỗi lan rộng và mọi người cứ bâng khuâng tự hỏi, với trình độ, trí thức như vậy thì nguyên nhân nào thúc đẩy 6 cô gái đi vào con đường mà chẳng ai muốn vào. Có phải đây là định luật nhân quả cha mẹ làm các con phải gánh chịu?


PHÍ PHẠM ĐỒ ĂN TRẢ NGHIỆP CHẾT ĐÓI

Chuyện này do chị Lê Thị Hoa trong phái đoàn của Úc kể lại. Đây là chuyện có thật xảy ra ngay trongchính gia đình chị. Những kỉ niệm từ khi chị mới 4 tuổi cho tới nay chị nhớ rất rõ mặc dù đã gần 50 năm trôi qua, nhưng sự thật về những câu chuyện nhân quả xảy ra trong gia đình chị thì không bao giờ phai nhạt. Chị kể lại mà thỉnh thoảng ngưng lại vì đôi dòng nước mắt cứ tuôn chảy, có lẽ vì những nghiệp báo thương tâm xảy ra trong gia đình chị năm xưa.

Nhà chị có 6 anh em, 2 trai , 4 gái. Gia đình vừa đủ sống không thiếu thốn chi hết. Ba chị thường đi làm về trễ, nhiều lúc ba chị bị bạn bè rủ đi nhậu tới khuya mới về, thế là đồ ăn do má chị để lại cho ba hôm sau đều bị ôi thiu, vì thời đó nhà chị chưa có tủ lạnh nên đồ ăn không thể để lâu được. Mỗi khi đồ ăn để lại bị ôi thiu má chị phải đem đi đổ với vẻ mặt buồn phiền, khi đổ má chị thường kêu lên “trời ơi…trời ơi” rồi đổ. Cử chỉ hành động này kéo dài nhiều năm nhiều tháng. Sau khi chị lớn lên thì gia đình ly tán, ba thì đi lấy vợ khác có thêm 7 người con, cuộc sống với má mới và 7 người con vô cùng vất vả, cơm không đủ ăn áo không đủ mặc, đời sống nghèo đói hiện ra rất rõ ràng trên từng khuôn mặt mỗi người trong gia đình. Lúc đó, chị mới 19 tuổi mà phải bước chân vào đời làm thuê, làm mướn để kiếm sống, dành dụm được chút ít nhưng thấy hoàn cảnh của ba thiếu thốn trăm bề nên chị cầm lòng không đặng, dù không có nhiều tiền nhưng chị vẫn âm thầm giúp đỡ ba, nhưng phải thật khéo léo vì sợ dì và mấy đứa con làm khó Ba. Mỗi tuần chị đều mua thịt, gạo đến cho Ba, lần nào đến thăm chị đều cho ba chị 20 đồng, má mới 30 đồng để dì khỏi phân bì. Nhưng khi Dì quay mặt đi thì chị nhanh tay nhét vào túi ba thêm 50 đồng nữa, phòng hờ khi Dì có lấy của Ba 20 đồng thì Ba vẫn còn 50 đồng mà xài. Thỉnh thoảng các anh em than đói nhà không còn gạo, thế là chị phải sang nhà bên mượn đỡ để anh em sống tạm qua ngày. Cuộc sống túng thiếu của gia đình ba chị mỗi ngày trầm trọng hơn không thấy dấu hiệu khá lên. Một hôm chị đến thăm ba thì thấy ba đang nhai các mắt mía của người ta bỏ. Chị hỏi tại sao ba lại ăn những thứ này? Ba chị đáp ăn để sạch miệng. Sau này chị mới biết vì quá nghèo đói nên ăn mắt mía mà sống qua ngày. Cuối cùng ba chị chết trong cảnh nghèo đói thật đau khổ!

Má chị thường nói có lẽ lúc trước đồ ăn để cho ba mày ổng không ăn làm cho ôi thiu rồi đổ đi cho nên bây giờ phải trả quả báo chết trong sự nghèo đói. Chị kể tới đây thì khóc sụt sùi trong khi xe đang chở phái đoàn trên những đoạn đường gồ ghề của xứ Ấn. Chị nói thêm về người anh thứ 2 của chị cũng bị nghèo đói, bệnh tật chết trong nỗi cô đơn vì tính bỏn xẻn với chính gia đình và các người khác. Anh thứ 2 rất thông minh, bặt thiệp khó ai trong gia đình chị sánh bằng. Sau khi lập gia đình, anh làm ăn rất khá, tiền của dư dả xây cất nhà cửa khang trang 5, 6 lầu. Tiền bạc vô như nước thế mà anh chưa bao giờ giúp đỡ ba má hay anh em trong gia đình dù đang gặp khó khăn, không ai có thể ăn được của anh dù 1 đồng. Anh chỉ biết gom góp của người khác cho mình và gia đình anh, anh không cần quan tâm đến đau khổ của ai cả. Tuy anh rất giàu có, nhưng cái gì có lợi thì anh tìm cách đưa về cho gia đình Anh, dù đó là anh em ruột hay bất cứ người nào khác, không bao giờ anh biết giúp đỡ dù chuyện nhỏ nhặt. Đối với mọi người anh đối xử rất tệ hại. Càng kể chị càng thấy đau lòng cho 1 con người đặc biệt này.

Ngay khi ba chị chết anh tự động đến trại hòm và tự đặt mua hòm loại tốt nhất, đẹp nhất để về lịm ba nhưng anh lại bắt chị trả tiền. Chị không đồng ý và chỉ lấy loại hòm hạng nhì, chị chấp nhận trả tiền. Đến khi làm đám cho ba, anh gọi thợ chụp hình đến để chụp ảnh cũng nói chị trả tiền. Lần này chị không trả thì anh lại có cử chỉ hành động không hay. Những năm 1978 tình hình kinh tế đất nước Việt nam còn nhiều khó khăn, mặc dù thời điểm ấy anh rất giàu, tiền của dư thừa nhưng anh không bao giờ giúp đỡ ai kể cả anh em trong gia đình mình. Sau khi chị vượt biên sang nước Úc vật lộn với cuộc sống đất khách quê người không ai thân quyến, suốt 25 năm sống ở xứ người, đời sống từ từ ổn định. Khi chị trở về lại Việt nam sau 25 năm xa cách, nhìn đất nước đổi thay chị thấy lòng vui vui. Những con người trước kia rất nghèo thì nay đã trở nên giàu có cuộc sống ổn định ấm no.Nhưng người anh thứ 2 của chị năm xưa giàu có thì nay lại trở thành một người không mái nhà che thân vì nhà cửa tiền bạc của anh đã bị vợ anh cướp đoạt và đuổi anh ra khỏi nhà.

Chị về tìm những người thân năm xưa, tìm nhiều nơi hỏi nhiều người mới biết anh thứ 2 đang nằm nhà thương vì bị bệnh lao thời kì thứ 3. Gặp được mặt chị anh khóc nức nở như một đứa trẻ con mất mẹ. Anh nói với chị bây giờ anh mới thấy quả báo của đời người, đúng là quả báo nhãn tiền xảy ra ngay trong gia đình anh.

ĂN HIẾP VÀ CƯỚP CỦA HÀNG XÓM

Có một gia đình khá đặc biệt dữ tợn gần nhà chị, không thấy mặt mũi chồng bà đâu cả chỉ biết bà có 2 gái, 5 trai, đứa nào cũng ngang ngược hung dữ như bà. Chị còn nhớ khi còn rất nhỏ chị đang làm con cá thì bà đi ngang mắng con gái gì mà không biết làm cá, đồ hư quá…Chị rất ngạc nhiên, tự nhiên bị bà này mắng chửi vô cớ. Ở trong xóm người nào cũng bị bà bắt nạt, la mắng. Ai cãi lại thì bà cùng mấy đứa con hung dữ kéo tới hành hung, chửi bới, quấy rầy, kể cả đe dọa với nhiều hình thức khác nhau. Chị đã chứng kiến nhiều lần bà và đám con bà đã dùng dao, mã tấu kiếm người khác mà gây sự. Phần lớn mọi người điều muốn có cuộc sống bình yên, kiếm cơm lo cho gia đình nên cắn răng nhẫn nhịn với hành động ngang ngược thô bạo của bà. Nếu sống độc thân không có gia đình thì mọi người đã lên tiếng và phản kháng lại với bà và mấy đứa con rồi. Lúc đó chị nghĩ bà này và mấy đứa con có ngày cũng lãnh quả báo cho sự ngang tàng hung dữ của mình.

Chị nhớ rất rõ mấy người chở củi từ miền Tây lên đậu gần nhà bà, bán xong phải trả tiền cho bà và mấy đứa con, những người mua củi cũng phải trả như vậy, bà gọi đó là tiền hoa hồng. Người bán người mua cũng phải trả tiền hoa hồng cho bà vì bà đã đút lót tiền bạc cho công an, cảnh sát, chính quyền địa phương nên bà và mấy đứa con tự tung tự tác lộng quyền như vậy. Sự lộng hành của bà chỉ được 6 năm thì bà qua đời, nguyên nhân cái chết cũng thê thảm không được bình thường. Thế là sau cái chết của bà, những thảm kịch lại từ từ xảy ra trong gia đình của bà sau năm 1975. Mọi người vượt biên, bà tìm cách chiếm đoạt đất đai nhà cửa để giành cho con út bà ở, còn nhà chính thì bà cho con thứ 2 bà ở, mấy đứa còn lại thì có vợ con đùm đề phải ở nhà thuê. Thế là mấy đứa kia hợp lại yêu cầu 2 thằng kia phải bán 2 căn nhà để chia tài sản nếu không bán bọn nó sẽ cầm dao mã tấu tới xử lý. Còn mấy đứa dâu và con cháu thì đem bà ra nguyền rủa, sao bà có thể phân chia không đồng đều công bằng như vậy…Thằng út là khôn lanh nhất nó tìm cách bán căn nhà rồi chờ nửa đêm nọ nó dẫn vợ con trốn đi nơi khác sinh sống nên không bắt nó phân chia tài sản được. Chỉ còn thằng thứ 2 nên mấy thằng kia tập trung bắt nó phải bán ngay không để nó trốn đi như thằng út được. Ba đứa qua nhà hàng xóm nhờ đến làm chứng là căn nhà kia là tài sản chung của gia đình họ, nhưng trong xóm không 1 ai dám đứng ra làm chứng vì sợ liên lụy trả thù, trả oán.

Thời gian cứ lặng lẽ trôi, thằng thứ 2 cũng tìm cách đúc lót chính quyền và cũng bán được căn nhà rồi cùng vợ con trốn đi biền biệt không ai biết tin tức. Mấy đứa còn lại không lấy được đồng nào từ 2 căn nhà đó nên cùng nhau chửi bởi nguyền rủa bà không lời nào tả xiết. Thời gian trôi đi đời sống của họ càng ngày càng túng thiếu đói khổ, và cuối cùng con cháu của bà có đứa phải mang tù tội, bị giam cầm, gia đình tan nát, có đứa thì bị tai nạn giao thông, rồi lại tật nguyền.

Đó là quả báo hiện tiền ngay trong thời hiện tại mà chị đã chứng kiến theo dõi gần 12 năm.

HỐT VÀO MÀ KHÔNG CHO RA

Sau đây là câu chuyện sự thật 100 phần trăm xảy ra ở tu viện miền Trung Việt nam, được một người tin nhân quả và tin Phật kể lại.

Có một ni sư lớn tuổi, cũng có thể gọi là sư Bà. Sư Bà tu khá lâu nên được mọi người biết và ngưỡng mộ. Sư Bà này rất tự hào là mình dòng dõi vua chúa, tôn thất, tôn tằng tôn nữ… Bà rất bặt thiệp thông minh, cho rằng mình học cao hiểu rộng hơn mọi người. Bà được mọi người cung phụng hầu hạ nên được rất nhiều người biếu tặng thức ăn và những đồ cao cấp. Ai biếu tặng bao nhiêu bà cũng nhận và đem cất vào phòng làm của riêng, chưa bao giờ bà cho chúng trong chùa một hộp sữa, một chai nước tương hay một hũ chao… Thỉnh thoảng bà gọi con cháu đến chơi và đưa đồ người ta biếu Bà và kêu đem về nhà. Lấy hoài mấy đứa cháu Bà cũng ngại nên người nhà và con cháu chỉ lâu lâu mới ghé thăm thôi. Một điều nữa vô cùng quan trọng, bà đợi đến trưa mọi người không ai để ý, bà nhờ người kêu mấy người thương nhân ở dưới chợ lên để bán những đồ biếu tặng. Có người ngại đồ cúng của chùa nên không mua hoặc từ chối. Nhưng cũng có một số người vẫn mua vì giá quá rẻ. Bà có đủ loại đồ cao cấp như sữa Ensure do nước ngoài sản xuất dành cho người già giá trên 200.000 đồng, vậy mà bà chỉ bán vài chục ngàn một lon lấy tiền để dành. Mỗi bữa ăn bà được thị giả bưng vào phòng riêng một mâm thức ăn đầy đủ, vậy mà ngày nào bà cũng chạy ra phòng ăn của đại chúng lấy thêm thức ăn. Mọi người đều thấy ngạc nhiên nhưng không ai dám nói vì sợ bị sư bà trừng phạt. Sự việc kéo dài khá nhiều năm ngày nào cũng vậy, đồ ăn do chị hậu cần đem lên ăn không hết để thừa, nhưng ngày nào bà cũng phải lấy thêm. Ăn không hết bà đem phơi khô để dành. Nhiều quá hôi thúi không có chỗ để, lâu lâu bà đem ra thùng rác đổ. Việc này có rất nhiều người tận mắt chứng kiến, nhưng không ai dám nói. Tuy được chăm sóc rất chu đáo, quà người ta biếu cũng khá nhiều, nhưng tình hình sức khỏe của sư bà ngày càng yếu đi, đúng là hốt vào nhiều mà không chịu cho ra nên trái với quy luật tự nhiên hay có thể nói là quả báo.

Nhiều đệ tử thân thích thấy bà ốm quá sức khỏe không tốt nên gửi tiền thêm cho chị nấu bếp để làm thêm vài món đặc biệt để Sư Bà ăn có sức khỏe. Không bao lâu, việc đó sư bà phát hiện, vì mỗi bữa ăn có những món lạ. Bà cho người gọi chị nhà bếp lên hỏi mới biết những món đó chỉ nấu riêng cho Sư bà dùng. Bà đề nghị chị nhà bếp không được nấu nữa, vì Sư Bà sợ phải trả thêm khoản tiền. Hiểu ý nên chị nhà bếp thưa Sư Bà yên tâm, tất cả các món nấu cho Sư Bà đã có người tài trợ. Nhưng bà vẫn không chịu, vì Sư Bà nghi ngại sợ phải trả thêm tiền. Không biết vì sao tiền của thì nhiều nhưng sức khỏe của Bà ngày một yếu đi, bà không bao giờ chia sẻ hay giúp đỡ kẻ khác dù là ai, trừ dòng họ bà con thân yêu của Sư bà mà thôi.

Câu chuyện hốt vào mà không cho ra còn nhiều đoạn hấp dẫn, có dịp có thêm tin tức xác thực, chúng tôi sẽ kể tiếp vì cuộc đời của Sư Bà chưa kết thúc.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/09/2016(Xem: 5710)
Vào cuối đời Tây Tấn, vua Huệ Đế ngu tối, việc triều chính đều do hoàng hậu Giả thị chủ trương. Giả hậu là người nham hiểm, lại biết quyền biến đởm lược, mưu giết các thân vương, phế bỏ Thái tử. Triệu Vương Luân bèn phẫn uất, cử binh giết Giả hậu, truất phế vua Huệ Đế mà tự xưng lên làm vua. Các thân vương khác thấy vậy cũng dấy binh tranh giành lẫn nhau, cốt nhục tương tàn, làm cho nhà Tấn suy yếu.
22/08/2016(Xem: 4636)
Sáng hôm nay trong thinh lặng của một sáng chủ nhật mùa đông, tôi muốn dành tâm trí thảnh thơi để viết vài hàng trả nợ cho cô bạn tí hon ngày xưa. Nợ vì tôi cứ hẹn sẽ viết cho nàng. Gọi là bạn nhưng chưa bao giờ nói chuyện, gọi là bạn vì học cùng trường. Tí hon vì nhỏ hơn tôi ba tuổi. Từ nhỏ, tôi có một tật rất xấu, tôi xem ai nhỏ tuổi hơn tôi là con nít. Vì sao chỉ hơn vài tuổi mà khi nào tôi cũng có cảm tưởng như mình đứng rất cao để nhìn xuống những người tí hon này!
11/08/2016(Xem: 4247)
Nó không biết chính xác năm nay mình bao nhiêu tuổi, chỉ nghe sư thầy nói nó ở chùa đã 12 năm với cái tên Quảng Chân Tâm. Tất cả những đứa trẻ ở chùa ngoài tên đời do cha mẹ đặt, sư thầy đều cho pháp danh với chữ Quảng đứng đầu.
03/08/2016(Xem: 37134)
Nhà thơ triết gia Phạm Công Thiện [1941 - 2011] qua đời năm 2011 tại Houston, nhưng chuyện kể, các bài viết về anh đã nhiều lầm lạc : Người viết : anh bỏ áo tu hành lấy cô vợ người Pháp, theo Thiên Chúa Giáo, kẻ khác viết : anh không hề có một mảnh bằng kể cả bằng tú tài mà dạy Triết Học Viện Đại học Sorbonne, mười lăm tuổi anh đọc và viết hàng chục ngôn ngữ, mười lăm tuổi anh dạy trung học, hai mươi tuổi anh là khoa trưởng khoa Khoa Học Nhân Văn, Đại Học Vạn Hạnh Sài Gòn, anh là triết gia không cần học một ai ? Dạy Triết học tại một Đại Học Pháp mà không cần một văn bằng nào ?
25/07/2016(Xem: 5310)
Người đàn bà đến bên cửa sổ ghé mắt nhìn ra ngoài trời. Qua lớp mưa mù dầy đặc trắng xoá ngoài kia bà chẳng nhìn thấy được gì ngoài những tia chớp xé toạt không gian kèm theo hàng loạt tiếng sấm như long lỡ đất trời. Thời tiết chiều nay quá xấu, xấu hơn người ta đã dự đoán và xấu hơn sự suy nghĩ của Quang, đứa con trai lớn của bà. Đã mấy tháng rồi nó mới có dịp bay về thăm bà vậy mà hôm nay trời lại mưa bão quá chừng! Trước khi lên máy bay nó còn gọi báo cho bà biết: - Bên đây thời tiết đẹp lắm má! Mong rằng khi con bay sang đến Cali thì trời quang mây tạnh, con sẽ chở má đi ăn và ở chơi với má đến tối mới về lại khách sạn.
06/07/2016(Xem: 8700)
Hôm nay là ngày 10 tháng 6 năm 2015, tại thư phòng chùa Viên Giác Hannover, Đức Quốc, tôi bắt đầu viết tác phẩm thứ 65 của mình với tựa đề là “Nước Úc trong tâm tôi” để sang năm 2016 sẽ xuất bản và ấn tống. Tác phẩm nầy được viết trong mùa An Cư Kiết Hạ lần thứ 31 của năm Ất Mùi, nghĩa là từ năm 1984 đến nay (2015) cứ mỗi năm ba tháng như vậy, Thầy trò chúng tôi có trọn vẹn 3 tháng an cư tại chùa Viên Giác thật là an lạc. Chương trình mỗi ngày được bắt đầu từ 5 giờ 45 sáng. Đại Chúng vân tập nơi Tổ Đường để xá Tổ, sau đó lên Chánh Điện, hô canh và tọa thiền 15 phút. Sau khi xả thiền, Đại Chúng bắt đầu trì tụng Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm, phần giữa của thời khóa có kinh hành niệm Phật ba vòng, tiếp đó lạy danh hiệu của chư Phật, Bồ Tát và Thánh Chúng độ 35 lạy. Sau thời công phu khuya ai về phòng nấy để nghỉ ngơi hay hành trì tiếp, hoặc tập thể dục. Đúng 8 giờ sáng là giờ điểm tâm của Đại Chúng, ai nấy đều tỉnh thức trong lúc dùng sáng, không nói chuyện, mà câu chuyện hằng ngày chỉ được
13/06/2016(Xem: 4402)
Hoa Lan nhất định không đầu hàng ngẩng mặt than thở: “Đời là bể khổ, tình là giây oan“ như cụ Tố Như đâu. Hoa Lan phải tâm tâm niệm niệm cột vào tâm câu Nhất thiết duy tâm tạo, khổ hay vui đều do cái đầu và bàn tay năm ngón của ta điều binh khiển tướng. Hoa Lan sẽ kể về nỗi khổ, niềm đau của thế gian trong trường thiên Tỵ Nạn Tình Duyên, một vấn nạn trong cuộc sống lứa đôi, trong vòng ái ân, sinh tử. Nỗi khổ chúng sanh chỉ cần khoanh vùng trong hai chữ tỵ nạn cũng đủ làm ta khiếp vía. Nào tỵ nạn cộng sản, con rơi của tỵ nạn chính trị, cháu rớt của tỵ nạn kinh tế, những đề tài ấy nhắc đến đã đủ ù tai hoa mắt và cũng chẳng phải là sở trường của mình, Hoa Lan sẽ kể về đề tài tỵ nạn tình duyên, nơi đã đi, đã đến và đã về.
01/06/2016(Xem: 13536)
Bài này được viết như một ghi chú cho Thiền Tông, để như một cách tiếp cận đơn giản… và hy vọng, cũng là một ghi chú cho rất nhiều pháp khác của nhà Phật, kể cả Tịnh Độ. Bởi vì, Thiền Tông là pháp môn cốt tủy nhất, trực tiếp nhất, không qua bất kỳ phương tiện nào khác, và cũng có thể dùng làm chiếc cửa lớn cho tất cả các pháp khác.
31/05/2016(Xem: 20992)
Chuyện xảy ra ở Việt Nam, nhưng lại bắt đầu từ bên Mỹ. Số là, vào khoảng thời gian năm 1956, có một kỹ sư Hoa Kỳ tên là Frank M.Balk. Chàng kỹ sư này suốt đời chẳng biết gì về cái xứ bé nhỏ xa xôi tận vùng Đông Nam Á tên gọi là Việt Nam cả.
27/05/2016(Xem: 6593)
Bao nhiêu năm ao ước cho đến hôm nay tôi mới có duyên lành được hành hương về Tây Trúc - Tây Trúc hay Thiên Trúc là tên gọi trước đây của xứ Ấn Độ. Trong phái đoàn tôi đi có nhóm Sợi Nắng và các Phật tử đến từ Canada cũng như Hoa Kỳ. Về chư Tăng thì có thầy Tánh Tuệ - nhà thơ Như Nhiên. Thầy là người từng sống và học tập ở Ấn Độ suốt bảy năm nên thầy nắm rất rõ về lịch sử, địa lý, phong tục tập quán... của người Ấn Độ. Cũng chính vì thâm niên như vậy nên nước da thầy rám nắng và người ta thường gọi thầy với cái tên rất gần gũi là "thầy cà-ri". Ngoài ra, phái đoàn còn có thêm sư cô An Phụng và sư cô Huệ Lạc
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]