Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

10. Vua Nhất Thiết Thí

05/04/201113:34(Xem: 6154)
10. Vua Nhất Thiết Thí

TRUYỆN CỔ PHẬT GIÁO
Diệu Hạnh Giao Trinh sưu tầm và kể chuyện, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính và giới thiệu

PHẦN II: Những chuyện tiền thân Đức Phật

10. Vua Nhất Thiết Thí

Ngày xưa ở Ấn Độ có một vị quốc vương được tôn xưng là Nhất Thiết Thí. Ngài là một ông vua rất mực nhân từ, thực hành đạo Bồ Tát. Bất kỳ người nào đến cầu xin với ngài điều chi đều được toại ý, nên dẫu xa xôi mấy người ta cũng nghe biết đến tên ngài.

Tại một quốc gia lân cận, có một thằng bé thuộc dòng Bà-la-môn, từ bé đã mất cha, sống với mẹ già và một người chị. Không có cha, nhà lại nghèo nên cuộc sống của ba mẹ con thật vô cùng khốn khổ.

Một hôm người mẹ gọi con đến bảo rằng:

– Mẹ nghe nói ông vua nước láng giềng là người rất mực nhân từ, ai đến cầu xin điều chi cũng được ông giúp đỡ, do đó mới được người ta tôn xưng là vua Nhất Thiết Thí. Mẹ nghĩ con có thể tìm đến đó xin đức vua ấy một số tiền để ba mẹ con mình sinh sống, không biết con có bằng lòng đi hay không?

– Thưa mẹ, con rất muốn đi qua bên ấy, nhưng thật tình con không có hiểu biết gì cả, lại không có chút học vấn nào, vì vậy con sợ không có khả năng đi xa như vậy. Con muốn ở đây cầu học trước cho có chút hiểu biết, có chút vốn liếng tri thức, thông hiểu đôi chút việc đời việc người rồi sẽ đi.

Người mẹ nghe thế, suy nghĩ một hồi lâu, cân nhắc kỹ càng điều con mình yêu cầu rồi bằng lòng đi mượn tiền để sinh sống trong một năm. Thời gian đó người con đi tìm thầy cầu học.

Thời gian đi vùn vụt, mau như nước chảy, ngoảnh đi ngoảnh lại một năm đã trôi qua mà đứa bé kia chẳng học được là bao. Về nhà, nó bàn với mẹ xin mẹ tìm cách khác, nhưng người mẹ lại thôi thúc phải con mau đi gặp vua Nhất Thiết Thí, không nên chần chờ nữa. Vì thế nó đành nghe theo lời.

Ngày đứa con lên đường, trong nhà không còn gì cả, bà mẹ lại đi tìm người chủ nợ năm ngoái để xin mượn thêm tiền, nhưng lần này ông chủ nợ không bằng lòng mà đưa ra điều kiện, buộc người mẹ và người chị phải đến nhà ông làm công thì ông mới chịu cho mượn thêm tiền.

Ngay lúc ấy, đức vua Nhất Thiết Thí phải đương đầu với một hoàn cảnh vô cùng khó khăn. Vị vua một nước láng giềng vốn tàn bạo bất nhân, lòng tham không đáy, đã đem một đội binh mã lớn rầm rộ kéo đến đánh phá biên giới của vua Nhất Thiết Thí, với ý định thôn tính nước này.

Nghe tin, vua Nhất Thiết Thí không hề lấy làm ngạc nhiên hay lo lắng, cứ thản nhiên như không hề có chuyện chi xảy ra, cũng không chuẩn bị bất cứ điều chi để ứng chiến.

Vì sao có chuyện lạ như vậy? Vì vua Nhất Thiết Thí vốn luôn nghĩ rằng đời sống con người vô cùng ngắn ngủi và tạm bợ, vinh hoa phú quý đều không có thật, nên ông đã từng nghĩ đến việc một ngày nào đó sẽ đem quyền cai trị đất nước của mình bố thí cho người nào mong muốn có được nó. Chỉ cần dân chúng được sống bình yên không phải khổ sở vì chiến tranh là ông mãn nguyện rồi, nên ông không hề nghĩ đến chuyện xuất binh chống cự để bảo vệ vương quyền.

Các quan đại thần trong triều lấy làm lo lắng trước tình cảnh ấy, lại thấy nhà vua cứ thản nhiên như thể không có gì xảy ra, vẫn cư xử, làm việc vui vẻ như bình thường, ai nấy ruột gan như lửa đốt, nên đồng xin yết kiến vua để hỏi ngài tại sao không lo việc ứng chiến.

Vua Nhất Thiết Thí im lặng không đáp, đợi cho các vị đại thần thưa thỉnh ba lần mới nói lên nỗi khổ tâm của mình:

– Này các hiền khanh, nếu chỉ để bảo vệ quyền lực, danh dự và địa vị riêng của mỗi mình ta, thì ta nghĩ không cần phải đối phó với sự tranh chấp ấy. Ta không muốn mọi người dân phải vì một cá nhân ta mà hy sinh tính mạng một cách vô nghĩa. Các khanh thử nghĩ xem, cuộc sống của một con người, chẳng qua mỗi ngày ăn vài chén cơm, mặc một hai thước vải, ở thì sáu bảy thước đất là đủ rồi. Người có trí huệ cần gì phải lao tâm khổ trí vì những thứ đồ vật ngoài thân như vậy? Ta không muốn đánh nhau với kẻ địch là chỉ vì muốn bảo vệ cho sinh linh cả nước. Nếu quốc vương nước láng giềng thật tình muốn đến đây, ta sẽ đem ngai vàng này tặng không cho ông ta, chỉ cần ông ta đừng làm tổn hại đến sinh mệnh của trăm họ là được rồi. Các khanh có tán đồng những điều ta nghĩ hay chăng?

Các vị đại thần từ lâu vốn đã được đức tính nhân từ của nhà vua cảm hóa, nên hôm nay nghe vua nói như thế thì không ai phản đối.

Thế là, nửa đêm hôm ấy, vua Nhất Thiết Thí để lại ấn ngọc, thay thường phục, không đem theo người tùy tùng nào, cưỡi một con ngựa khoẻ lặng lẽ rời hoàng cung, đi ra khỏi thành.

Ngày hôm sau, vua nước láng giềng dẫn một đội quân tiên phong nhanh chóng tiến thẳng vào thành, không gặp bất cứ một sự kháng cự nào, cứ thế mà thênh thang tiến vào. Thành trên thành dưới, cổng trong cổng ngoài đều không có một sự ngăn trở hay phản đối nào cả!

Dân chúng trong thành từng đoàn từng lớp vẫn qua lại nhộn nhịp buôn bán, chuyện trò rộn ràng, họ không hề biết rằng ngay trong lúc ấy đã diễn ra một sự thay ngôi đổi chủ.

Lòng tham và dục vọng của con người như biển sâu không đáy, dường như không có gì có thể lấp đầy! Vị bạo vương kia đã không tốn chút công sức nào để cướp đoạt một thành trì to lớn, một đất nước giàu có, lẽ ra đã có thể tự thấy toại nguyện mà hưởng thụ, thì lại không thấy như thế là đủ. Ông sinh ra nghi ngờ vì sự thành công quá dễ dàng, và lo lắng vì không hiểu được dụng ý sự ra đi lặng lẽ của vua Nhất Thiết Thí. Ông nghĩ, tốt nhất là nhổ cỏ thì phải nhổ cho tận gốc mới có thể tránh được mọi điều phiền phức về sau. Thế là, ông liền treo một giải thưởng rất lớn cho bất cứ ai bắt được vua Nhất Thiết Thí đem về.

Vua Nhất Thiết Thí rời hoàng cung rồi cứ nhắm hướng vùng hoang dã mà đi. Đi mãi được đến năm sáu trăm dặm, tới một chỗ nọ thì gặp đứa bé nhà nghèo vâng lời mẹ đi tìm ông để mong được giúp đỡ. Nhưng vua Nhất Thiết Thí không hề biết điều đó nên hỏi đứa bé:

– Này em bé, em đi đâu một mình vậy? Sao không có người lớn nào đi với em?

– Cháu đi tìm gặp ông vua nhân từ, xin ông ấy giúp đỡ gia đình cháu.

Rồi đứa bé đem hoàn cảnh gia đình mình nhất nhất kể cho vị vua nhân từ này nghe:

– Từ khi cháu còn rất nhỏ, cha cháu đã qua đời rồi, bỏ lại cháu với người chị và một mẹ già. Mẹ cháu là phận đàn bà yếu đuối, cha cháu lại không để lại gia sản nào nên đời sống rất là khốn khó. Gần đây, cũng vì cháu muốn cầu học, mẹ cháu phải vay mượn tiền của người ta. Vì thế nên bây giờ mẹ cháu và chị cháu phải đến nhà làm công cho họ để trừ nợ. Hoàn cảnh gia đình cháu vô vàn khó khăn như thế, nên cháu muốn đi tìm đức vua nhân từ kia để xin ngài giúp tiền cho cháu đi chuộc mẹ và chị về.

Vua Nhất Thiết Thí nghe xong thở dài, trả lời:

– Em bé ơi, ta chính là vua Nhất Thiết Thí mà em đang muốn tìm đây!

Nghe rằng người đứng trước mặt mình, với một vẻ ngoài hết sức bình thường mà lại tự xưng là vua Nhất Thiết Thí, đứa bé vô cùng kinh ngạc, hầu như không sao tin được là sự thật lại có thể như thế!

Vua Nhất Thiết Thí liền đem chuyện mình ra kể hết cho đứa bé nghe. Nghe xong, đứa bé rất cảm động, nước mắt ràn rụa, bi thương quá không tự chủ được.

Nhà vua dịu dàng khuyên đứa bé không nên quá thương tâm, và hứa sẽ có cách giúp cho nó được toại nguyện. Đứa bé hoài nghi hỏi lại:

– Đại vương! Hiện nay ngài không còn cai trị đất nước, trong người hầu như không còn một vật gì đáng giá, ngài định lấy gì mà giúp cháu đây?

Vua Nhất Thiết Thí thản nhiên đáp:

– Ông vua nước láng giềng tuy đã chiếm được đất nước của ta nhưng trong lòng vẫn chưa thỏa mãn. Vì ta bỏ đi lánh nạn, nên bây giờ ông ta đang treo một giải thưởng rất lớn cho ai bất cứ bắt được ta đem về. Nếu em giết ta và đem thủ cấp của ta về lãnh thưởng, thì lúc ấy không phải là em sẽ được toại nguyện hay sao?

Đứa bé từ chối vì không thể nhẫn tâm làm việc ấy. Nhà vua bèn dạy nó cắt mũi, cắt tai của mình đem về cũng có thể lãnh thưởng, nhưng đứa bé nhất quyết không làm những chuyện như thế. Cuối cùng, nhà vua liền nói:

– Em không muốn giết ta, lại cũng không muốn làm cho ta bị thương, vậy bây giờ chỉ có một cách này mà thôi: Em hãy trói ta lại rồi đưa về, em làm được việc này không?

Đứa bé còn chần chừ chưa quyết định thì nhà vua đã hết lời thúc giục, còn tự mình chạy đi tìm dây trói mang lại, nên nó đành phải nghe theo kế sách của nhà vua.

Vua Nhất Thiết Thí và đứa con của nhà bà-la-môn nọ bèn cùng nhau hướng về phía kinh thành mà đi. Khi còn cách kinh thành khoảng hai dặm, nhà vua bảo đứa bé trói ông lại rồi mới đi tiếp.

Lúc ấy, nhân dân trong thành nam nữ già trẻ đều kéo ra xem, nhìn thấy đức vua nhân từ của mình bị trói đưa vào thành thì không một ai không thương tâm bật khóc, thậm chí có những người quá sầu đau đến mức ngã lăn xuống đất bất tỉnh, như thể nhìn thấy cha mẹ mình chết vậy! Bầu không khí đau thương lan rộng khắp kinh thành, mọi người đều u sầu áo não không còn thiết gì đến chuyện làm ăn buôn bán...

Đến cửa cung điện liền có người nhanh chóng vào trong thông báo. Vị bạo vương nghe nói có người bắt được kẻ thù của mình đem về thì mừng rỡ bước ra xem và lập tức truyền lệnh đưa ngay vào cung.

Các vị đại thần nhìn thấy đức vua nhân từ trở về liền phủ phục cả xuống đất mà khóc lóc thảm thiết. Tình cảnh vô cùng bi thương khiến cho chính vị bạo vương cũng không khỏi động tâm, ông bèn hỏi các đại thần:

– Vì sao các ông lại khóc lóc thê thảm đến như vậy?

Các đại thần đồng thanh tâu lên rằng:

– Đại vương, xin ngài tha lỗi cho chúng thần đã thất lễ! Nhưng chúng thần thấy đức vua nhân từ này không những đã bỏ cả vương vị mà còn đem chính thân mình ra bố thí cho người khác, lại chẳng có chút gì là tiếc rẻ ân hận! Đại vương, hành động như vậy thật quá ư cao cả, vì thế chúng thần không thể không thật lòng cảm động!

Vị bạo vương nghe các vị đại thần nói như thế thì lòng hung hăng bạo ngược bỗng chốc như tan biến. Ông bèn hỏi đứa bé con nhà bà-la-môn xem nó đã bắt được nhà vua kia như thế nào. Đứa bé thật tình đem chuyện gia đình mình và việc gặp gỡ nhà vua nhân từ giữa đường ra sao, kể lại rõ ràng từng chi tiết cho bạo vương nghe.

Sau khi nghe đứa bé kể lại đầu đuôi mọi chuyện, vị bạo vương liền được cảm hóa, trong lòng thấy vô cùng xúc động, nước mắt bất giác trào ra không sao ngăn lại được. Ông lập tức truyền lệnh cởi trói cho vị vua nhân từ kia, sai người đưa đi tắm gội sạch sẽ rồi mời ngồi lên vương vị, đem ấn ngọc trao trả lại. Ông còn quỳ xuống đất mà tâu lên đức vua nhân từ rằng:

– Tiểu vương này đã nghe tiếng nhân đức thánh thiện của đại vương từ lâu, nhưng không tin là thật có những chuyện như thế, nên mới nghĩ đến việc thôn tính đất nước của ngài. Nào ngờ khi vào được lãnh thổ của ngài, không hề gặp phải bất cứ một sự kháng cự nào. Nhưng lúc ấy tôi vẫn nghĩ rằng đại vương chẳng qua chỉ chạy theo danh thơm tiếng tốt mà thôi. Cho đến hôm nay tôi mới tận mắt được thấy hành vi cao cả và đức độ của ngài, tôi thật vô cùng khâm phục. Cúi xin ngài tha thứ cho những việc làm đã qua của một kẻ tiểu nhân ngu si, và tôi nguyện từ nay về sau nghe theo lời đại vương chỉ dạy, hướng dẫn, để không còn đi theo con đường tội lỗi nữa.

Quả thật là, dùng sức mạnh để đối địch và đàn áp không bao giờ có thể thu phục được người khác một cách đúng nghĩa; chỉ có đạo đức mới khiến cho người ta quy phục một cách chân chính.

Sau khi kể cho mọi người nghe câu chuyện trên, Đức Phật bảo các đệ tử rằng:

– Vua Nhất Thiết Thí chính là tiền thân của ta, bạo vương ngày đó nay chính là Xá-lợi-phất, còn đứa con nhà bà-la-môn nay chính là Đề-bà-đạt-đa. Cho nên, ta sở dĩ thành tựu được sáu ba-la-mật, có đủ 32 tướng tốt, mười loại Phật lực, viên mãn tất cả mọi công đức, đều là nhờ ơn của Đề-bà-đạt-đa. Vì thế, Đề-bà-đạt-đa là thiện tri thức của ta, cũng là người bạn tốt của ta.

Có thể xem một người đệ tử phản bội như Đề-bà-đạt-đa là thiện tri thức, là bạn tốt, quả thật nhân cách của Đức Phật quá sức cao quý!
 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/10/2010(Xem: 2982)
Hằng Nga trong cung trăng: Theo sách của Hoài Nam Tử, Hậu Nghệ xin thuốc trường sinh của bà Tây Vương Mẫu, Hằng Nga là vợ của Hậu Nghệ uống trộm...
27/10/2010(Xem: 20249)
Mục đích của chúng tôi trong khi sưu tập những mẫu chuyện kể này là để mọi người thưởng thức những tinh hoa hay đẹp của giáo – lý qua những câu chuyện tươi sáng đẹp đẽ. Nếu công việc sưu tập ca – dao là một việc khó thì công việc sưu tập và trình bày những mẩu chuyện cổ của đạo Phật cũng là một việc khó khăn và đòi hỏi sự hợp lực của nhiều người. Hàng chục ngàn mẫu chuyện đạo, nào thuộc loại tiền thân, nào thuộc loại lịch sử, nào thuộc loại thí dụ, nào thuộc loại triết lý. . . những câu chuyện đó thật là phong phú và chứa đựng những tinh hoa của giáo - lý, từ - bi và trí tuệ. . . Ðọc những mẫu chuyện đạo ấy, không ai thấy chán nản cả. Các em thiếu nhi thích đã đành, người lớn chúng ta cũng vẫn thích và hơn thế nữa, lắm lúc cũng phải suy nghĩ nhiều để có thể hiểu được triết – lý của một câu chuyện. Chúng tôi sức lực không bao lăm thành thử trông mong rất nhiều ở các vị học giả thâm uyên và dày công nghiên cứu. Chúng tôi chỉ muốn làm công việc nói lên những nguyện vọng, và tr
22/10/2010(Xem: 3856)
Tại biên giới của tỉnh Tây Khương sát với Tây Tạng, có một bà lão sống cô độc, chồng và đứa con trai duy nhất của bà đã qua đời. Bà sống nhờ một thửa đất nhỏ trồng những hạt ngũ cốc. Vì cuộc đời đã trải qua nhiều gian truân từ nhỏ, bà lão cảm thấy nghiệp chướng trong người rất nặng nên đã cố công tìm hỏi những người chung quanh phương pháp chuộc tội để cầu xin cho tâm hồn được bình yên.
21/10/2010(Xem: 8366)
Bị xổng một lần trong khóa tu học kỳ 6 tại Bỉ, vì chọn ngày hè trật đường rầy (hãng tôi làm việc phải chọn hè từ đầu tháng 2); năm sau, tôi quyết tâm canh ngày giờ cho đúng để tham dự cho bằng được khóa tu học kỳ 7 tại Đan Mạch, do Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu tổ chức.
19/10/2010(Xem: 7941)
Khi xe chúng tôi đến nơi, đồng hồ chỉ đúng 12 giờ khuya. Phòng ốc dành cho 300 giường đã không còn chỗ trống. Ban Tổ Chức đành trưng dụng phòng họp, phòng học - một cho phái nữ, một cho phái nam - với các tấm nệm lót dưới đất cho chúng tôi ngủ tạm. Giải quyết một lúc cho phái đoàn Thụy Sĩ 30 người - chưa kể các nước khác - đâu phải dễ. Vả lại đi chùa thì phải chấp nhận "ăn chay nằm đất". Nằm "đất" còn phải chịu, lựa là nằm "nệm", nên chúng tôi vui vẻ nhận lời, không than van gì cả. Mà than van nỗi gì được khi đã hiểu giáo lý (dù chút chút) của đạo Phật. Mọi sự phải do "duyên" mà có. Và "duyên" này khởi từ "nhân" chiều nay.
17/10/2010(Xem: 9443)
Hơn 6 tiếng xe lửa từ Aschaffenburg, tôi trở về đến nhà gần 10 giới tối. Lục đục tắm rửa, ăn chén súp nóng (do chồng nấu cho) huyên thuyên kể chuyện, rồi đánh răng... mãi gần 12 giờ khuya tôi mới lên giường đi ngủ. Sáng sớm hôm sau 6 giờ thức dậy sửa soạn đi... cày. Công việc ứ đọng của 2 ngày thứ 5, thứ 6 (lấy hè, cộng với công việc của thứ 2 đầy ắp trên bàn. Tôi một mình chịu trách nhiệm một phòng không ai thay thế). Ông xếp trước khi về văn phòng còn đứng đó chờ đợi, vẻ lo âu. Tôi trấn an ông:
17/10/2010(Xem: 4707)
Tết Trung Thu ăn vào ngày rằm tháng 8. Nguyên cuối đời nhà Tây Hán (206 trước 23 sau D.L.), Vương Mãng nhân được cầm giữ chính quyền...
17/10/2010(Xem: 2914)
Một vị thương gia lập nghiệp từ tay trắng, sau kiếm được rất nhiều tiền nhưng vì buôn bán trong thời kinh tế không ổn định, khiến anh ta trở nên phá sản, nợ nần chồng chất. Nghĩ mãi không tìm ra cách giải quyết, anh ta bèn ra bờ sông tự tử. Vào lúc canh ba một đêm nọ, anh ta đến trước bờ sông, bỗng nhiên nhìn thấy một thiếu nữ đang ngồi khóc thảm thiết, anh bèn đến hỏi cô gái: - Có chuyện gì mà đêm hôm khuya khoắt cô ngồi khóc một mình ở đây?
16/10/2010(Xem: 4069)
Hàng ngàn năm trước tây lịch, khi thổ dân Dravidian còn ngự trị khắp lãnh thổ Ấn Độ cổ thời, vùng phía tây Hy Mã Lạp Sơn là lãnh địa của rắn. Vốn là vùng rừng núi bạc ngàn nằm trên nóc nhà thế giới, Hy Mã Lạp Sơn là nơi thâm u bí hiểm với sơn lam chướng khí trùng trùng và vô số loài thú dữ cư ngụ sẵn sàng lấy mạng người để làm thức ăn. Thời đó, thổ dân Dravidian không có đủ vũ khí hùng mạnh để chống cự với các loài mãnh thú và tự bảo vệ mình. Từng người vào rừng săn tìm thức ăn đã không thấy trở về. Độc địa nhất không phải chỉ là những hổ, cọp, gấu, beo nằm lồ lộ chờ mồi bên bờ suối, dưới gốc cây hay trong khe đá, mà ngay bên dưới lớp lá khô mục của đường rừng là những loài rắn nguy hiểm chực chờ bước chân người.
16/10/2010(Xem: 3725)
Trong thiền không có đầu đuôi, khúc chiết, lý luận. Nó đập vỡ lý luận. Đó là thế giới lý tưởng của câu thơ lớp ba mồ côi luận lý. Thế giới của những câu cuối lấc cấc, mẹ gà con vịt. Đừng bắt tôi giải thích; hãy lang thang với tôi trong câu cuối của dăm ba chuyện thiền nổi tiếng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]