Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

38. Sanh ra trong lửa

26/03/201108:33(Xem: 6133)
38. Sanh ra trong lửa

CHUYỆN PHẬT ĐỜI XƯA
Đoàn Trung Còn biên soạn, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

SANH RA TRONG LỬA

Lúc ấy, đức Phật đến ngụ tại thành Chiêm-bà (Campaka), kinh đô xứ An-ga.

Bấy giờ, trong thành có một vị đại trưởng giả không con kế tự. Ông này theo phụng sự 6 ông thầy ngoại đạo, gọi là Lục sư, để nhờ họ cầu cho ông được có con nối dòng.

Rồi chẳng bao lâu, người vợ mang thai. Trưởng giả mừng lắm, đến chỗ Lục sư, vui vẻ hỏi rằng: “Thưa các ngài, vợ tôi đang mang thai, không biết đó là trai hay gái?”

Lục sư đáp rằng: “Bà sẽ sanh con gái.”

Nghe rồi, trưởng giả lấy làm buồn khổ, phiền muộn. Có người bạn đến chơi, hỏi trưởng giả rằng: “Tại sao anh sầu não như vậy?”

Trưởng giả đáp rằng: “Vợ tôi mang thai, tôi chưa biết là trai hay gái, nên có đến hỏi các thầy Lục sư. Các thầy dạy rằng: “Như tướng pháp của chúng ta, ắt bà sẽ sanh con gái.” Tôi tự xét rằng mình đây tuổi già, giàu có vô cùng, nếu chẳng có con trai, thì lấy ai nối dòng? Vì thế nên tôi sầu khổ.”

Người bạn ấy nói rằng: “Anh không có trí tuệ. Từ trước tới nay, anh chẳng nghe biết gì sao? Ba anh em các ngài Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp là đệ tử của ai? Của Phật hay của Lục sư? Nếu Lục sư là bậc Nhất thiết trí, tại sao anh em Ca-diếp bỏ đi mà chẳng thờ, lại đến làm đệ tử Phật.

“Lại nữa, ngài Xá-lỵ-phất với Mục-kiền-liên, rồi các vị quốc vương, đại vương Tần-bà-sa-la, các vị phu nhân của các vua, phu nhân Mạt-lỵ... cho đến các vị trưởng giả có danh của các nước như Tu-đạt-đa... Những người như vậy, há chẳng phải đều đến làm đệ tử Phật hay sao?

“Cho đến Quỉ vương Khoáng Dã hại người, vua A-xà-thế hung bạo, con voi say Hộ Tài muốn hại Phật, Ương-quật-ma-la ác tâm mãnh liệt muốn giết cả mẹ mình... những hạng quỉ thần, người, vật như thế, há chẳng phải đều được Như Lai điều phục cho trở nên hiền lương, thuần hậu hay sao?

“Này anh bạn, Như Lai Thế tôn thấy biết tất cả các pháp một cách vô ngại, cho nên tôn xưng là Phật. Lời của ngài nói ra đều là chân lý duy nhất, cho nên xưng là Như Lai. Ngài đoạn trừ hết phiền não, cho nên xưng là A-la-hán. Chỗ thuyết dạy của Thế Tôn là chân thật không phân hai lẽ. Lục sư ngoại đạo vốn không được như thế, làm sao anh có thể tin họ được?

“Hiện nay, Như Lai đang an trụ gần đây, nếu anh muốn biết rõ, nên đến chỗ ngài mà thưa hỏi.”

Trưởng giả liền đi với người bạn ấy, đến chỗ Phật ngự, cúi đầu và mặt làm lễ sát chân Phật, đi nhiễu quanh Phật ba vòng, rồi chắp tay quỳ mọp xuống, thưa rằng: “Thế Tôn! Ngài đối với chúng sanh là bình đẳng không hai, lòng thương xót không phân biệt kẻ oán, người thân. Con nay bị dây ái luyến trói buộc, chưa thể dứt bỏ sự phân biệt giữa kẻ oán với người thân. Nay con muốn thưa hỏi Như Lai Thế Tôn, nhưng tự thấy rất thẹn thuồng, sợ sệt, nên chưa dám phát ra lời.

“Bạch Thế Tôn! Vợ con mang thai, Lục sư đều nói rằng sẽ sanh con gái. Xin ngài dạy cho việc ấy thế nào?”

Phật dạy: “Trưởng giả! Đứa con mà vợ ngươi đang mang thai đó, chắc chắn là một bé trai. Trẻ ấy sanh ra rồi sẽ có phước đức không ai sánh bằng.”

Nghe lời Phật dạy như thế, trưởng giả rất vui vẻ, bèn lạy từ trở về nhà.

Khi ấy, Lục sư nghe nói Phật đã nói rõ rằng đứa trẻ sắp chào đời là con trai và có phước đức lớn, họ liền sanh lòng tật đố. Họ dùng trái am-la, hoà với thuốc độc, đem đến nhà trưởng giả, nói với người rằng: “Khoái thay! Sa môn Cồ-đàm nói hay về tướng của vợ con ngươi. Khi nào vợ ngươi sắp sanh, nên cho uống thuốc này. Uống thuốc này rồi, đứa con sẽ được đoan chánh, bà mẹ không có bệnh hoạn.”

Trưởng giả vui vẻ, thọ lãnh độc được của họ, đưa cho vợ uống. Uống rồi, bà ấy chết. Lục sư ngoại đạo lấy làm mừng rỡ, đi khắp thành thị, rêu rao rằng: “Sa môn Cồ-đàm đã nói trước rằng vợ trưởng giả ấy sẽ sanh con trai, đứa con ấy sẽ có phước đức lớn, trong thiên hạ chẳng ai hơn. Nay đứa con chưa sanh mà người mẹ đã mất mạng.”

Khi ấy, trưởng giả mất vợ liền sanh tâm bất tín đối với Phật. Ông ta mới y theo chế pháp, tẩm liệm quan quách, đưa ra ngoài thành, chất nhiều củi khô, lấy lửa mà thiêu xác.

Khi ấy, Phật dùng đạo nhãn thấy rõ mọi việc, liền dạy ngài A-nan rằng: “Đem áo đến cho ta, ta muốn đến đó phá diệt tà kiến.”

Ngay lúc đó, Thiên vương Tỳ-sa-môn phán với đại tướng Ma-ni-bạt-đà rằng: “Nay Như Lai muốn ngự đến vùng mồ mả ấy, khanh nên mau tới đó trước, dọn dẹp quét rửa sạch sẽ, đặt tòa sư tử trang nghiêm, cùng với hương hoa tinh khiết thơm đẹp mà trang hoàng chỗ đất ngài sắp đến.”

Rồi Phật đi đến chỗ thiêu xác vợ trưởng giả. Nhìn thấy đức Phật từ xa đi lại, Lục sư liền nói với mọi người rằng: “Sa môn Cồ-đàm đến viếng chỗ mồ mả này đặng kiếm thịt ăn chớ gì?”

Khi ấy, có những đệ tử xuất gia chưa đắc pháp nhãn, cùng với nhiều người trong hàng nam cư sĩ, ai nấy đều ôm lòng hổ thẹn, bạch với Phật rằng: “Người đàn bà ấy quả đã chết rồi, xin ngài không nên đến đó.”

Tôn giả A-nan liền nói với mọi người rằng: “Hãy chờ một chút! Đợi xem Như Lai sẽ mở rộng cảnh giới của chư Phật.”

Khi Phật đã đến nơi, ngự lên toà sư tử, trưởng giả trong lòng bực tức, vặn hỏi Phật rằng: “Ngài xưa nay không nói hai lời nên được xưng là Thế Tôn! Nay ngài nói quyết là sanh con trai, mà người mẹ đã chết thật rồi, làm sao sanh con trai?”

Phật nói: “Trưởng giả!. Lúc trước ngươi thật không có hỏi ta rằng người mẹ thọ mạng dài hay ngắn, ngươi chỉ hỏi ta rằng cái thai mà người mẹ đang mang là trai hay gái mà thôi. Chư Phật Như Lai chẳng hề nói hai lời. Cho nên ngươi phải biết rằng, ngươi chắc được con trai.”

Lúc ấy, tử thi bị lửa thiêu, bụng nứt toạc một đường. Trong đó, đứa con hiện ra, ngồi đoan trang trong lửa, dường như chim uyên ương đậu trên toà sen.

Lục sư ngoại đạo thấy vậy liền nói rằng: “Yêu mị! Cồ-đàm thật khéo làm trò ảo thuật!”

Trưởng giả nhìn thấy con rồi, trong lòng vui vẻ, gặn hỏi Lục sư ngoại đạo rằng: “Nếu các ông nói là ảo thuật, sao các ông chẳng làm như vậy thử xem?”

Bấy giờ, đức Phật bảo Kỳ-bà rằng: “Ngươi hãy đến bồng đứa trẻ ấy lại đây.”

Kỳ-bà vừa muốn đi, Lục sư đứng cản trước mặt, nói với Kỳ-bà rằng: “Chỗ hóa tác ảo thuật của sa-môn Cồ-Đàm, vị tất đã là chắc chắn, có khi được, có khi chẳng được. Nếu như chẳng được, tất là có hại cho ngươi. Sao nay ngươi vội tin lời ông ấy?”

Kỳ-bà đáp rằng: “Ví dầu Như Lai sai tôi vào địa ngục A-tỳ, nơi đó có lửa mạnh, lửa còn chẳng đốt tôi được, huống chi lửa thế gian!”

Liền đó, Kỳ-bà ung dung bước vào đống lửa, dường như lội xuống dòng sông và ở dưới nước trong mát mẻ. Rồi ông bồng đứa trẻ ấy ra, đi đến chỗ Phật, trao đứa trẻ cho Phật.

Nhận đứa trẻ ấy rồi, Phật nói với trưởng giả rằng: “Đời sống của tất cả chúng sanh chẳng phải nhứt định, dường như chút bọt trên mặt nước. Nhưng nếu chúng sanh có nghiệp quả nặng đầy, thì dù lửa cũng chẳng thiêu chết được, dù độc cũng chẳng hại chết được. Đây là nghiệp quả của trẻ này, chứ chẳng phải do ta hoá tác.”

Bấy giờ, trưởng giả bạch rằng: “Lành thay! Thế Tôn! Đứa trẻ này mà có được thật là mệnh trời, nguyện Như Lai đặt tên cho nó.”

Phật dạy: “Trưởng giả! Trẻ này sanh trong lửa mạnh. Lửa gọi là Thọ-đề,(1) vậy đặt tên nó là Thọ-đề.

Những chúng sanh được chứng kiến sự việc này, có vô số người phát tâm theo Phật.

(Theo kinh Đại Bát Niết-bàn, quyển 30)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/10/2010(Xem: 3769)
Trong đời, tôi đã thấy mặt trăng lần nào chưa? Nhìn trăng, tôi nhìn cả đời. Nhưng thấy trăng, tôi không dám nói chắc. Khi tôi nhìn trăng trước mắt, tôi nghĩ đến trăng nửa khuya loáng thoáng trên tàu lá chuối sau vườn cũ. Tôi nghĩ đến đèn trung thu lúc nhỏ. Tôi nghĩ đến cái chõng tre giữa sân trên đó, ngày xưa, tôi nằm nhìn mây bay. Nhìn trăng, tôi không thấy trăng. Chỉ thấy lá chuối, chõng tre. Thấy cả tôi với trẻ con hàng xóm nô đùa. Có lần tôi trốn tìm với chúng nó, bị lộ, tôi nhảy bừa vào bụi tre, bất ngờ có đứa con gái đã ngồi sẵn trong đó. Tôi sợ hoảng, toan vọt ra thì nó kéo tay tôi lại, ấn vai tôi xuống, cười đồng lõa. Trong loáng thoáng của cây lá, tôi thấy hai cái răng cửa của nó sáng ngời ánh trăng. Bây giờ, nhìn trăng non, tôi thấy cái miệng và hai cái răng. Tựa như hai cái răng của nó phát ánh sáng và in hình miệng nó lên bầu trời.
16/10/2010(Xem: 3033)
Ngày xưa, một nhà quan lang họ Cao có hai người con trai hơn nhau một tuổi và giống nhau như in, đến nỗi người ngoài không phân biệt được ai là anh, ai là em
16/10/2010(Xem: 2855)
Ngày xưa, vào hồi Tây Sơn khởi nghĩa, có một chàng trai người vùng Đồng Nai, có tài cả văn lẫn võ, đã vung gươm hưởng ứng sự bất bình của thiên hạ.
16/10/2010(Xem: 2702)
Ngày xửa... Ngày xưa... Có một cô bé rất giàu lòng yêu thương. Cô yêu bố mẹ mình, chị mình đã đành, cô còn yêu cả bà con quanh xóm...
15/10/2010(Xem: 3090)
Một danh tướng về già muốn tặng thanh kiếm báu của mình cho một tướng quân ở xa. Ông giao trọng trách đó cho một gia nhân, cũng là một tay kiếm xuất chúng. Cẩn thận như vậy, ông vẫn không yên lòng, nghĩ rằng kiếm sĩ này chưa chắc đã đủ chín chắn để giữ kiếm không bị cướp dọc đường. Thanh kiếm không những quý về chất thép mà còn quý vì chuôi kiếm có nạm vàng và ngọc vua ban.
13/10/2010(Xem: 2504)
Có hai vợ chồng một ông già tên là Dã Tràng. Trong vườn họ có một hang rắn. Thường ngày làm cỏ gần đấy, ông già vẫn thấy có một cặp vợ chồng rắn...
13/10/2010(Xem: 4081)
Vào Thứ Sáu, ngày 8 tháng 10 năm 2010, Ủy Ban Giải Nobel Hòa Bình Na Uy đã công bố giải Nobel Hòa Bình năm 2010 được trao cho Lưu Hiểu Ba. Lưu Hiểu Ba, sinh năm 1955 tại thủ phủ Trường Xuân của tỉnh Cát Lâm ở đông bắc Trung Quốc, là nhà tranh đấu bất bạo động cho tự do, dân chủ và nhân quyền tại Trung Quốc. Ông đã từng tham gia phong trào sinh viên đấu tranh trong biến cố Thiên An Môn năm 1989 và sau đó liên tục bị sách nhiễu, quản chế tại gia và tù tội. Ngày 8 tháng 12 năm 2008, ông đã bị bắt vì cùng một số nhà tranh đấu dân chủ và nhân quyền Trung Quốc công bố Hiến Chương 2008 đòi xóa bỏ chế độ cai trị độc đảng để tiến tới một xã hội dân chủ cho Trung Quốc. Hiến Chương 2008 cho đến nay đã có hơn 8,500 người tham gia ký tên. Vì Hiến Chương 2008, Lưu Hiểu Ba đã bị chính quyền cộng sản Trung Quốc kết án 11 năm tù. Hiện ông vẫn còn ngồi tù ở Liễu Ninh, Trung Quốc.
11/10/2010(Xem: 3104)
Không ngờ tôi lại có được duyên lành đi chung với Thầy Trụ Trì Chùa Tâm Giác một đoạn đường khá xa. Tôi vẫn thường hay đến chùa, vãn hay gặp Thầy nhưng lúc nào Thầy cũng „Phật sự đa đoan“ nên tôi có rất ít thì giờ gần gũi và tiếp xúc với Thầy nhiều. Chuyến đi này thật hữu ích cho tôi vô cùng, tôi đã nghe và thấm nhuần được rất nhiều điều về Giáo lý Phật Đà - một niềm tin mà tôi luôn luôn tôn thờ và say mê khi vừa mới lớn cho đến tận bây giờ và cũng nhờ Thầy mà đoạn đường đi về 260 km không còn xa vời vợi nữa.
07/10/2010(Xem: 3240)
Hiện nay, truyền thuyết Lương Sơn Bá-Chúc Anh Đài được lưu truyền dưới nhiều hình thức nghệ thuật khác như kể chuyện, ca dao, truyền kỳ, kịch, khúc nghệ, âm nhạc, v.v
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]