Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

7. Thằng Quý

22/03/201114:25(Xem: 1706)
7. Thằng Quý

BÓNG THỜI GIAN
Tác giả: Diệu Kim

THẰNG QUÝ

Mẹ nó đặt cho nó tên là Quý, nhưng người ta không thấy nó quý chút nào. Vừa chào đời, nó đã lọt vào một gian nhà tranh rách nát, nhỏ xíu xiu như cái tổ chim với nhiều lỗ thủng có thể ngắm được cả trăng sao. Lớn một chút, nó thấy ba nó vắng nhà liên tục, và cuối cùng ba nó bỏ đi theo một người đàn bà khác. Còn lại mẹ nó, một người phụ nữ chưa trẻ bao lâu đã vội già vì hờn giận, ghen tuông, đau đớn, chờ đợi, và già thêm vì một mình nuôi con bằng cái nghề làm mướn bấp bênh nay có mai không. Chị để mặc ngày tháng trôi qua, thời gian gặm nhấm nhan sắc, tuổi xuân của mình, và để mặc đứa con trai trong sự cô đơn, lam lũ không thua gì chị.

Mười bốn tuổi, thằng Quý vẫn chưa biết chữ nào, chưa hề được tới trường, suốt ngày lêu lổng ngoài đường, ngoài ruộng. Nó theo đám bạn đi bắt cá, hái rau, đánh lộn, chửi thề, rồi tập tành hút thuốc, đánh bài. Vậy đó, nó như cây cỏ dại lớn lên cằn cỗi trên mảnh đất quê nghèo, chẳng ai muốn đến gần nó.

Mà nó cằn cỗi thật. Mười bốn tuổi nhưng chỉ bằng đứa trẻ lên mười, ngoại trừ khuôn mặt thì lại hằn những dấu ấn cuộc đời. Hôm cô Diệu gặp nó, cô ngỡ ngàng nhìn cái cổ gầy nhom của nó đóng đen thui những ghét bẩn. Cô mủi lòng, chắc mẹ nó không hề nhắc nó tắm rửa thế nào. Chiếc áo nó mặc thâm kim cả mảng lưng, còn cái quần lếch thếch sát đất cứ như mặc quần bính. Đôi vai trơ xương cứ nằng nặc đòi vác ba lô cho cô, và đưa ra tận bến đò, lưu luyến nhìn theo bóng cô mờ khuất. Đôi mắt nó thấm đẫm niềm thương, khiến con đò cô Diệu đi cứ như chòng chành trên sóng nước. Ngày đầu tiên nó gặp cô Diệu là như thế đó...

Thật ra, ban đầu cô Diệu cũng không hề nhận biết thằng Quý. Nó lẫn vào đám đông trẻ nhỏ kéo đến chùa để cô Diệu phát quà. Cô Diệu là Phật tử ở xa, lâu lâu về ghé thăm chùa. Ngôi chùa nhỏ nằm cách nhà thằng Quý vài trăm mét, cũng nghèo như bao nhiêu mái tranh của dân trong làng. Cô Diệu đem quà bánh về cho trẻ con, tụi nhỏ tưng bừng hớn hở ôm lấy những hộp bút màu, những cuốn tập, những chiếc ô tô nhựa, và mấy cái bánh ngọt hấp dẫn. Thằng Quý cũng được một phần quà nặng tay. Cô Diệu đâu có biết rằng nó mù chữ. Và cô Diệu cũng đâu có biết nó được đặc biệt “quan tâm” hơn những đứa trẻ trong xóm. Cô thấy nó lanh lẹ nên cứ nhờ nó xách dùm bịch bánh, khiêng dùm chồng tập, nó sung sướng chạy te tái giúp cô, mồ hôi ướt đẫm cả áo. Phát hết quà, nó cứ đứng gần cô, không chịu về. Thầy trụ trì nói nhỏ với cô:

– Thằng nhóc này ăn cắp lắm nghen cô. Tôi bị nó lấy mấy món rồi đó, nên bây giờ không cho nó vô trong khuôn viên chùa, chỉ cho đi vòng vòng ngoài cổng tới nhà bếp thôi.

Cô Diệu giựt mình sờ tay vào túi kiểm tra lại cái điện thoại di động. Nhưng cô mỉm cười ngay lập tức:

– Dạ không sao. Con thấy nó cũng dễ thương đó thầy.

– Ờ, cô cẩn thận...

Và không đầy năm phút sau, cô Diệu đã nắm hết “lý lịch” của thằng Quý từ mấy bà Phật tử tự động “méc” cho cô nghe. Rõ ràng, nó đã tự làm mất “uy tín” từ lâu.

Nhưng cô Diệu lại ngoắc thằng Quý đến gần:

– Con ăn bánh chưa?

– Dạ con ăn rồi.

– Con lấy tập ra viết chữ cho cô coi. Thầy nói thầy đã dạy con học được nửa cuốn vần, sao con không học tiếp?

– Dạ... tại con lấy đồ của thầy, thầy giận...

– Cô dạy con học nghen. Và lát nữa con xin lỗi thầy, thầy sẽ tha thứ cho con.

– Dạ. Nhưng con không học đâu. Ngán thấy mồ. Chữ nọ lộn chữ kia. Nhức đầu quá.

Cô Diệu gật đầu:

– Được rồi. Thôi không học chữ, mà cô sẽ dạy con vẽ.

Thằng Quý giãy nảy:

– Con không biết vẽ.

Cô Diệu mỉm cười:

– Con đưa bàn tay cô xem nào.

Thằng Quý đưa tay ra. Bàn tay khẳng khiu, đen đúa, những cái móng dài nhét đầy đất như mười con sâu nằm vắt ngang gớm ghiếc. Cô Diệu mở túi xách lấy chiếc bấm móng tay nhẹ nhàng cắt hết mười con sâu ấy, còn lại mười ngón nhỏ gầy sạch sẽ. Cô bảo Quý ra sàn nước rửa tay, rồi bảo Quý nhìn cho thật kỹ:

– Con xem, con có bàn tay rất khéo léo, cô tin là con sẽ làm được những việc rất tốt. Bây giờ con thử vẽ, cô chắc chắn là con vẽ đẹp. Con đừng có ý nghĩ thua kém bạn bè, mà phải tin rằng mình cũng có những khả năng riêng của mình. Con không học chữ được thì hãy học vẽ. Cố gắng lên, cô biết con sẽ thành công mà.

Thằng Quý nhìn cô Diệu không chớp mắt. Nhưng nó vẫn lắc đầu:

– Con chẳng biết vẽ cái gì bây giờ.

Cô Diệu lấy cây bút màu đỏ đặt vào tay nó:

– À, con thử vẽ con cá xem.

Bàn tay thằng Quý cứng đơ nắm chặt cây bút. Cô Diệu lấy cây bút khác kéo mấy nét gọn hơ là trang giấy hiện lên một con cá. Thằng Quý trố mắt. Cô Diệu nói:

– Rồi, con vẽ đại đi. Con cứ vẽ con cá nào mà con tưởng tượng. Miễn cô nhìn ra con cá thì thôi.

Thằng Quý ngập ngừng đưa nhẹ cây bút. Một con cá tong teo, méo xẹo, nhưng cũng đủ cả vây, cả vảy. Cô Diệu reo lên:

– A, Quý vẽ con cá giống ghê. Quý vẽ thêm một con nữa đi. Dưới sông nhiều loại cá lắm chứ.

– Con vẽ cá rô nghen cô. Cá lóc nữa. Hay cá mè vinh.

Và nó mạnh dạn đưa cây bút lướt trên mặt giấy. Những con cá lần lượt hiện ra, thay đổi hình dáng, thay đổi kỳ vi, râu vảy, đẹp đến bất ngờ. Cô Diệu lật sang trang vở khác, và đưa cho nó cây bút màu vàng, màu xanh.

– Bây giờ con tự vẽ cái bông đi. Bông gì cũng được.

Thằng Quý vẽ ngay một cái bông năm cánh, chung quanh là thân cây và lá màu xanh chằng chịt. Nó ngước lên:

– Cô ơi, con muốn vẽ cái chậu, màu nâu được không cô?

– Đúng rồi. Chậu trồng bông thì màu nâu. Quý giỏi quá.

Chưa đầy 20 phút sau, mấy trang vở đã chất đầy những chậu bông đủ màu hồng, vàng, cam, tím. Thằng Quý buông cây bút xuống, những ngón tay nó mỏi nhừ, mồ hôi lấp lánh trên trán, nhưng đôi mắt thì sáng ngời. Cô Diệu cười thật tươi:

– Con có tin mình sẽ thành công không?

Quý gật đầu. Cô Diệu thủ thỉ:

– Từ nay về sau, con phải sống thật tốt để mọi người yêu quý con. Con tên là Quý mà, phải làm sao cho người ta quý mình chứ. Nghèo không phải đã tuyệt vọng. Nếu con sống tốt thì cuộc đời con sẽ sung sướng.

Thằng Quý nuốt từng lời của cô Diệu. Nó im lặng, nhưng nước mắt sắp trào ra. Còn cô Diệu cũng ngân ngấn mắt khi nhìn thấy bộ quần áo của nó và cái cổ gầy đóng những ghét bẩn. Cô thở dài:

– Chiều tắm, con lấy khăn chà mạnh lên cổ nghen. Rồi cô gởi một bộ đồ về cho con.

– Còn con sẽ vẽ đầy cuốn tập để tặng cô. Mà cô ơi, cô dạy con viết chữ đi. Viết tên cô đó.

Cô Diệu ghi chữ Diệu thật bự lên tờ giấy. Thằng Quý nguệch ngoạc viết thêm chữ mẹ đằng trước chữ Diệu. Nó cười lỏn lẻn:

– Thầy dạy con học tới chữ mẹ rồi. Cô ơi, cô cho con kêu cô là mẹ nghen. Con sẽ viết hoài cho thuộc chữ “mẹ Diệu.”

Cô Diệu bất ngờ:

– Ờ... con thích kêu cô là mẹ hả?

– Dạ, con làm con của cô được không? Cô hiền như cô tiên vậy.

– Được rồi, cô sẽ là mẹ của Quý. Nhưng Quý phải ngoan và chăm học. Cô sẽ nhờ thầy dạy tiếp cho hết cuốn vần. Nếu con không chịu học là mẹ giận.

– Dạ, con sẽ học, để sau này viết thư cho mẹ chớ. Rồi con sẽ học vẽ để sau này đi làm kiếm tiền nuôi mẹ.

– Con rất giỏi, chỉ cần con cố gắng là con sẽ thành công. Mẹ tin chắc như thế.

– Con cũng tin chắc như thế.

Thằng Quý xòe bàn tay ra. Cô Diệu cũng xòe bàn tay ra, vỗ vào tay nó kêu một tiếng thật giòn như một lời hứa. Tiếng thằng Quý cười trong veo cả hiên chùa.

Đã tới giờ xe chạy, cô Diệu phải sang sông đón xe. Quý nhất định đưa mẹ qua đò cho bằng được. Nó lóc cóc vác cái ba lô nặng trĩu, sợ mẹ xách nặng rồi mỏi tay. Nó không quên nhắc mẹ Diệu đội nón, và đem theo trái xoài thầy vừa tặng.

Cô Diệu lên xe rồi, thằng Quý vẫn đứng trông theo, trên tay nó là hộp bút màu và quyển tập ôm chặt vào ngực. Xe lăn bánh, nó vẫy tay với cô Diệu, bàn tay vừa được nâng niu và đặt vào đó một niềm tin...

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/10/2010(Xem: 3290)
Vào Thứ Sáu, ngày 8 tháng 10 năm 2010, Ủy Ban Giải Nobel Hòa Bình Na Uy đã công bố giải Nobel Hòa Bình năm 2010 được trao cho Lưu Hiểu Ba. Lưu Hiểu Ba, sinh năm 1955 tại thủ phủ Trường Xuân của tỉnh Cát Lâm ở đông bắc Trung Quốc, là nhà tranh đấu bất bạo động cho tự do, dân chủ và nhân quyền tại Trung Quốc. Ông đã từng tham gia phong trào sinh viên đấu tranh trong biến cố Thiên An Môn năm 1989 và sau đó liên tục bị sách nhiễu, quản chế tại gia và tù tội. Ngày 8 tháng 12 năm 2008, ông đã bị bắt vì cùng một số nhà tranh đấu dân chủ và nhân quyền Trung Quốc công bố Hiến Chương 2008 đòi xóa bỏ chế độ cai trị độc đảng để tiến tới một xã hội dân chủ cho Trung Quốc. Hiến Chương 2008 cho đến nay đã có hơn 8,500 người tham gia ký tên. Vì Hiến Chương 2008, Lưu Hiểu Ba đã bị chính quyền cộng sản Trung Quốc kết án 11 năm tù. Hiện ông vẫn còn ngồi tù ở Liễu Ninh, Trung Quốc.
11/10/2010(Xem: 2215)
Không ngờ tôi lại có được duyên lành đi chung với Thầy Trụ Trì Chùa Tâm Giác một đoạn đường khá xa. Tôi vẫn thường hay đến chùa, vãn hay gặp Thầy nhưng lúc nào Thầy cũng „Phật sự đa đoan“ nên tôi có rất ít thì giờ gần gũi và tiếp xúc với Thầy nhiều. Chuyến đi này thật hữu ích cho tôi vô cùng, tôi đã nghe và thấm nhuần được rất nhiều điều về Giáo lý Phật Đà - một niềm tin mà tôi luôn luôn tôn thờ và say mê khi vừa mới lớn cho đến tận bây giờ và cũng nhờ Thầy mà đoạn đường đi về 260 km không còn xa vời vợi nữa.
07/10/2010(Xem: 2380)
Hiện nay, truyền thuyết Lương Sơn Bá-Chúc Anh Đài được lưu truyền dưới nhiều hình thức nghệ thuật khác như kể chuyện, ca dao, truyền kỳ, kịch, khúc nghệ, âm nhạc, v.v
05/10/2010(Xem: 1985)
Năm Tiết Đào lên tám, một hôm vào mùa thu, Tiết Đào đứng chơi bên cạnh cha, gần một cây ngô đồng. Cây đã già, cành lá sum sê đứng sừng sững trước nhà...
05/10/2010(Xem: 2611)
Kiều bào hơn 30 quốc gia trên thế giới đã về Thủ đô nhân mùa lễ hội kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long – Hà nội. Ngày 30/9, tất cả đã có mặt, và được đón về khách sạn Kim Liên. Ngày mồng 1 và mồng 2 tháng 10, tất cả các đoàn Kiều bào được tập dợt tại đường Bắc Sơn, sơ duyệt diễu hành tại Quảng trường Ba Đình. Và những ngày sau đó được Ban Tổ chức đưa đi thăm viếng thắng cảnh, các khu di tích có liên quan đến triều đại Thánh Vương Lý Thái Tổ.
04/10/2010(Xem: 1829)
Thôi Hộ, một danh sĩ đời nhà Đường (618-907), nhân dự hội Đạp Thanh đến Đào Hoa Trang, gõ cửa một nhà xin được giải khát. Một thiếu nữ đứng thập thò bên cửa...
02/10/2010(Xem: 2166)
Một đêm nọ, sư cụ nằm mộng thấy một người đàn bà dắt năm đứa con nhỏ đến trước mặt mình rồi vái lấy vái để, miệng nói: "Xin cứu mạng! Xin cứu mạng!". Sư hỏi người đàn bà...
30/09/2010(Xem: 7920)
Chúng sanh bị đọa địa ngục, đó là chúng sanh tâm bị đọa lạc vào địa ngục tham, sân, si phiền não. Muốn giải phóng chúng sanh tâm, phải dùng tự tánh Địa Tạng của chính mình.
27/09/2010(Xem: 5810)
Đức Địa Tạng là một vị đã chứng bực Đẳng Giác trải đến vô lượng A Tăng Kỳ kiếp rồi. Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu Ngài chưa độ hết chúng sanh, thì Ngài không chứng quả Bồ Đề, và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn, thì Ngài thề không chịu thành Phật. Do cái bổn nguyện ấy, nên Ngài phân thân nhiều phen, đặng độ thoát hằng hà sa số chúng sanh đương tội khổ, trải đã không biết bao nhiêu kiếp rồi, mà Ngài cũng còn làm một vị Bồ Tát như vậy. Còn như nói đến tiền thân của Ngài từ khi chưa chứng quả vị, có kiếp Ngài làm con gái, có kiếp thì Ngài làm con trai, và cũng có kiếp Ngài làm vua nữa.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567