Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

4. Thầy trụ trì

22/03/201114:25(Xem: 2726)
4. Thầy trụ trì

BÓNG THỜI GIAN
Tác giả: Diệu Kim

THẦY TRỤ TRÌ

Cái tin chùa Long Sơn có thầy trụ trì mới về chẳng làm dân trong xã ngạc nhiên chút nào. Đây là vị trụ trì thứ ba trong vòng ba năm. Dân nói với nhau: “Rồi thầy cũng đi thôi. Đất này, chùa có ‘huông’ rồi, linh lắm, không ai ở được.”

Chỉ có điều lạ là, thầy trụ trì về mà không có lễ “tấn phong” rình rang như trước, không có mặt chư Tăng Ni chứng minh như trước. Một buổi trưa, người ta thấy một bóng áo nâu lấm bụi đường, khuôn mặt ẩn sau vành nón rộng, tay nải oằn nặng trên vai, còn tay kia xách một bịch nylon thấy rõ những cuốn sách nằm xếp lớp bên trong. Con đường làng uốn lượn qua những khóm tre, khóm trúc, bóng xoài, bóng nhãn, nắng chấp chới trên chiếc áo nâu như một lời chào không rõ thân tình hay đùa nghịch.

Thầy về hôm trước, hôm sau đã nghe tiếng mõ công phu đều đều. Bà Tư Bèo nhà giáp đất chùa là người làm công quả đầu tiên. Không phải tốt gì lắm, mà do bà vốn quen qua vườn chùa hái đọt nhãn lồng về sắc cho ông chồng uống trị bệnh tim. Lúc chùa không có ai thì bà qua hái thoải mái, giờ có mặt thầy, không lẽ nín thinh không chào một tiếng, coi sao đặng. Rồi bà đon đả: “Thầy có làm gì tui làm tiếp cho thầy.” Thầy cười nhẹ: “Dạ, cũng chưa có việc gì. À mà dì Tư có đi chợ tôi gởi mua giùm chai nước tuơng.” “Mèn ơi, vô tình quá. Thầy về hèn lâu mà hổng thấy thầy đi chợ. Rồi thầy ăn gì ha?” “Hồi về tôi có đem theo tương chao, đề phòng chợ xa. Bây giờ ăn hết rồi.” Bà Tư mau mắn: “Được, được, thầy đừng lo.” Bà chạy về nhà đem qua “cúng dường” liền một chén nước tương, thứ nước tương lẻ bán đong lít, đong xị, không ngon bằng tàu vị yểu nhưng lại đậm đà mùi đậu nguyên chất.

Từ đó bà Tư lui tới thuờng xuyên, giúp đỡ thầy phá dọn mảnh vườn đầy cỏ dại để trồng mấy thứ rau quả ăn dần. Thầy cuốc đất, lên liếp rồi gieo hạt đậu đũa, cà chua, xà lách, cải ngọt, bầu bí, mồng tơi... Lại thêm một luống vạn thọ để cắt hoa cúng Phật và nạo vét cái ao nhỏ gây lại giống sen. Bà Tư nhìn thầy làm mà chắt lưỡi: “Tui coi bộ tướng thầy y như thầy giáo. Hổng biết trụ được bao lâu!” Nói rồi bà biết mình lỡ lời nên hoảng hồn bụm miệng. Nhưng thầy chỉ cười: “Trụ được một ngày biết được một ngày.” Bà Tư nhìn gương mặt trẻ trung của thầy, chợt thấy vừa lo lắng vừa bực bội không diễn tả được. Bà phủi đít đứng dậy đi về nhà, bỏ quên luôn con dao làm cỏ.

Thấm thoát, cà ra trái đỏ rực vườn chùa, đậu cũng lúc lỉu đầy giàn, và rau cải xanh um, bí bầu mơn mởn... Thầy ăn một mình không hết, cứ gọi xóm giềng đến cho. Riết rồi vườn chùa là của chung, ai muốn ăn gì cứ vô hái, chỉ cần nói: “Thầy ơi, cho con xin...” Hái xong, lấy thùng xuống mương xách nước quơ dùm thầy một vòng. Có hôm, chị Hai Ánh hái luôn cả thúng rau trái đem ra chợ bán, mua về tàu hủ, nước tương, chao, đường, bột ngọt... chất đầy bếp chùa. Chị không quên cái túm cà phê nhỏ để thầy tỉnh táo mà thức công phu. Chị còn kêu thằng con trai 17 tuổi của chị: “Đông, mày mạnh tay qua cuốc giùm thầy cái liếp cải coi.” Đông khà khà: “Làm giùm rồi thầy có đãi tui nhậu không? Từ hôm thầy về tới giờ chưa chịu liên hoan.”

Chị Hai nhớ lại vị trụ trì thứ hai, rất trẻ và cởi mở, cứ thù tiếp với cán bộ và thanh niên trong xã như bạn bè. Nhưng rồi không hiểu sao thầy cũng khăn gói ra đi. Chị quát thằng Đông, không cho nó nói bậy, nhưng trong lòng chị than thầm: “Chẳng biết ra sao...”

Sáu Kình công an ấp tới thăm chùa một buổi chiều, tay xách chai rượu thuốc vàng sậm. Cùng đi, có anh Năm Tân trưởng ban văn hóa thông tin xã. Năm Tân nức nở khen khu vườn chùa gọn gàng, sạch đẹp. Sáu Kình lại phẩy tay: “Tôi chỉ cám ơn thầy ở chỗ thầy làm quang đãng cho tụi ăn trộm không còn chỗ núp. Cả năm nay chùa hoang, vườn hoang, quản lý mệt quá. Thôi vô một ly nghen thầy.” Thầy nhỏ nhẹ: “Anh cảm phiền, tôi không biết uống rượu. Để tôi dọn cơm chay mời mấy anh ăn cho vui. Lâu lâu ăn cực với chùa một bữa nghen.” “Ăn cực cũng đâu có sao. Nhưng thầy phải uống với tôi mới vui. Ông thầy trước hòa đồng lắm.” “Dạ thôi, mấy anh cứ uống tự nhiên, còn tôi uống trà đá được rồi.”

Bữa cơm đâm ra mất hào hứng. Sáu Kình uống vô hai ly nhỏ rồi nhìn thầy chăm chăm: “Tui hỏi thiệt thầy nghen, thầy đẹp trai quá mà đi tu chi uổng vậy?” Thầy cười mỉm mỉm: “Lúc tám, chín tuổi tôi đã nhận ra mình ở trong chùa. Cha mẹ đâu chẳng rõ. Đến lớn, khi bắt đầu nhận thức được, tôi thấy yêu mến con đường Phật giáo nên tu luôn.” “Hà hà, thầy coi chừng mấy con nhỏ trong xóm đó nghen.” “Mô Phật, anh nói nghe kỳ quá!” Sáu Kình cười ngất: “Giỡn mà. Nhưng tôi cũng cầu trời cho thầy ở đây lâu hơn mấy ông kia...” Thầy lẳng lặng nhìn ra vườn chùa, nơi có những hoa cà đang ẩn trong lòng nó một trái nhỏ con con. Ráng chiều vàng rực bao lấy những cánh hoa tim tím dịu dàng.

Sân chùa trở thành nơi tụ tập của tụi con nít. Vị trụ trì đầu tiên có công lót gạch tàu hết khoảng sân rộng. Ông còn bắt tay xây lại nhà tổ rất quy mô. Nhưng hễ ai vào chùa mà không ý tứ giữ sạch sẽ hoặc nói năng không cẩn trọng liền bị ông quở. Nhưng sau đó ông lại ngồi than: “Ở các vùng quê, Phật tử chẳng được học hành giáo lý gì hết, khó mà hoằng pháp.” Ông thường xuyên rút vào phòng nghiên cứu kinh sách. Các Phật tử nhìn những cuốn từ điển dày cộp của ông, những bộ kinh hàng chục cuốn bao bìa mạ vàng cất trong tủ kính mà lắc đầu thán phục.

Tuy nhiên, chẳng bao lâu, ông bỏ đi, để lại ngôi nhà tổ đang cất dở dang. Đến khi vị trụ trì thứ ba về, chính là thầy, nhà tổ vẫn chưa trùng tu xong. Nhưng thầy chỉ tận dụng những tấm tôn cũ còn xài được, đem lên lợp, cốt sao tránh được mưa nắng. Duy cái sân gạch, thầy quét dọn sạch sẽ và cho phép đám trẻ con vào chơi. Thầy chỉ dặn: “Các con đừng ngắt bông, để dành cúng Phật, Phật sẽ thương cho các con học giỏi. Giờ trưa thì về nhà để yên tịnh cho thầy nghỉ ngơi.” Tụi nhỏ dạ rân.

Một hôm, con bé Thảo cháu bà Ba Lý rụt rè hỏi: “Thầy ơi, con hổng có đi học rồi làm sao Phật thương cho con học giỏi.” Nhà con bé nghèo quá, cả đám anh chị em đẻ năm một lít nhít, ăn còn không đủ, lấy tiền đâu đi học. Thầy vuốt tóc nó: “Thôi, mỗi bữa con đến đây thầy dạy cho.” Bữa nào bé Thảo cũng ẵm em tới sân chùa chơi với tụi bạn trong xóm, nhưng từ đó thay vì chơi suốt, nó dành ra một tiếng đồng hồ học chữ với thầy. Thầy cho nó cả tập, viết, thước kẻ... Nó mừng lắm, cưng cuốn tập như cưng vàng.

Lũ trẻ thấy bé Thảo học, cũng ngưng ngang cuộc chơi, đứng ngó. Trong đám ấy, rất nhiều đứa không được đến trường. Vậy là, tụi nó về nhà kể với ba má, xin học với thầy. Sân chùa thành “lớp tình thương” khiến ông chủ tịch ấp cảm ơn rối rít. Thầy dành dụm tiền bán đậu, bán cà mua tập viết cho lũ trẻ. Đổi lại, tụi nhỏ cứ quấn quít bên thầy, quét sân, lau chùa, phơi củi như một bầy con. Lâu dần, bớt nghe tụi nó chửi thề, đánh lộn. Bà Tư Bèo nói: “Ông thầy có phép gì mà khiển được đám lâu la này vậy cà?”

Sân chùa còn vang tiếng hát ca của đám thanh niên trong xóm. Cái hôm gần đến lễ Quốc khánh, xã có chuẩn bị hội diễn văn nghệ, thầy kêu thằng Đông: “Em có đăng ký hát không? Rủ bạn bè sinh hoạt văn nghệ cho vui. Qua sân chùa mà tập cho rộng rãi.” Đông liền kéo đám bạn vô chùa. Lần đó, ấp 3 của Đông được giải nhì, tụi nhỏ rinh nguyên nồi chè vô liên hoan với thầy và gọi đùa đây là “nhà văn hóa.”

°

N

hưng cơn lũ đã ào tới phá vỡ sự bình yên của cái xã heo hút. Sân chùa vắng ngắt, chỉ có lũ chim trên cành me kêu ríu ran nhớ nắng, nhớ tiếng cười của bầy trẻ nhỏ. Mỗi tối, thầy tụng kinh một mình, chuông mõ như cũng ngóng theo từng con nước lên. Dân trong xã nháo nhác chạy đi tìm đường tránh lũ. Chủ tịch xã quyết định đắp đê bao cứu lúa. Hy vọng vớt vát được phần nào, chứ không mất trắng như cơn lũ năm rồi.

Dân trong xã ủng hộ quyết định này, ùn ùn kéo đi như những ngày đắp đê làm thủy lợi. Tờ mờ sáng đã thấy dòng người đổ ra đồng, xếp dài theo những tuyến kinh, nơi mà con nước sẵn sàng phá vỡ để tràn vào gây họa. Kẻ cầm leng móc đất, kẻ đứng đóng cừ tràm, các dì các chị thì lấy bao khiêng đất. Tiếng đất thảy nghe bình bịch, tiếng nước sôi réo đằng sau bờ đê... Mặt mũi ai nấy lấm lem hiện rõ dần trong ánh ban mai. Trong đó có một tà áo nâu bết bùn và một gương mặt lấm chấm sình non ẩn dưới vành nón lá. Chị Hai Ánh xách ấm nước đi tới, rót ra một ly: “Thầy uống đi thầy, rồi nghỉ mệt chút.” Mấy người đứng gần đó liền phụ họa: “Ừ, thầy nghỉ tay đi. Tội nghiệp, thầy ăn chay ăn lạt, sức đâu làm như tụi tui.”

Thì ra có mặt thầy trụ trì chùa Long Sơn trong đám người đi cứu lúa. Thầy lắc đầu, mặt đỏ hồng dưới ánh nắng: “Dạ cô bác yên tâm, tôi chưa mệt đâu mà...” Bà Tư Bèo chợt vỗ đùi cái đét: “Tui nhớ ra rồi, niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì đỡ mệt hơn, như hồi mình leo núi Sam vậy mà. Nam mô...” Nghe giọng bà Tư niệm Phật, ai nấy không nhịn được, cười ồ lên. Phút chốc mà con đê đã vượt khỏi mực nước rất xa, chỉ thấy những con sóng tức tối vỗ bên kia bờ đất, đục ngầu những con mắt bọt nhìn theo đám người thở phào sau mấy ngày vất vả...

Thầy Long Sơn khẽ cúi xuống nâng một bông lúa bị chân ai đó vô tình giẫm lên. Bông lúa ửng vàng trong đôi mắt thầy rưng rưng...

°

L

ần đầu tiên chùa Long Sơn tổ chức lễ Phật Đản vui như vậy. Trước đó, chú Bảy Kiên Chủ tịch xã vô chơi với thầy, nhắc thầy sao “im re” “Tôi đi họp, thấy mấy chùa kia xin phép tổ chức lễ, gởi thư mời ì xèo lắm, còn thầy có định làm gì không? Hay là tôi cho mấy đứa bên văn hóa thông tin vô tiếp thầy dán băng-rôn? Ờ, thầy về đây lâu quá mà hổng thấy thuyết pháp gì hết, thôi kỳ lễ này thầy lên giảng sơ sơ cho dân nghe. Tôi cũng muốn chùa làm lễ xôm xôm một chút, mừng bà con mình thoát lũ.”

Thầy mỉm cười cảm ơn chú Bảy. Chú đi quanh quanh ra sân chùa, thích thú khen đám kiểng non thầy mới gầy dựng. “Tôi cũng ưng các hoạt động văn hóa như vầy, kẻo người ta nói xứ mình khô cằn. Thầy ơi, bữa nào rảnh thầy chỉ tôi uốn kiểng nghen.” “Được mà, chỉ sợ chú không rảnh việc nước đó thôi.” Chú Bảy lắc đầu: “Công việc thì làm hoài hổng hết, hễ muốn chơi thì chơi chớ biết chừng nào mới rảnh hả thầy – Chú sực nhớ – À, còn lớp học tình thương của thầy nữa, tôi đã xin được một mớ tập viết cho tụi nhỏ, tiếp tay với thầy. Vài bữa tôi cho người đem vô. Thầy có khó khăn gì không, cứ nói tôi liệu tiếp được phần nào thì tiếp.” Thầy cười: “Bây giờ chưa thấy khó gì hết!” Chú Bảy thủ thỉ: “Xã mình nghèo quá, thôi thì thầy chung lo với tụi tôi. Coi bộ thầy ở đây ‘hợp’ à nghen. Vậy mà mấy người trong xã cứ đồn chùa này có huông, tôi không tin.”

Chú Bảy ra về, bắt tay thầy thân mật, không quên cầm theo “quà tặng” của thầy là một rổ cà chua đỏ hồng hoàn toàn không xịt thuốc sâu và phân hóa học.

Tiếng trống Bát nhã vang lên ấm cả một quãng đồng. Tiếng đại hồng chung ngân nga rơi trên những cành lá xanh mướt... Buổi lễ Phật Đản tuy đơn sơ nhưng long trọng và chan hòa tình cảm giữa mái chùa cùng thôn xóm. Sau các nghi thức lễ, mọi người ngồi quây quần trong chánh điện, thầy ngồi giữa, thuyết pháp đúng 30 phút, đề tài Từ Bi. Giọng thầy trầm trầm, lời lẽ giản dị, vậy mà ai nấy cứ xuýt xoa: “Mèn ơi, thầy giảng hay quá mà thầy giấu nghề!” Khói nhang bay quấn lấy những gương mặt dãi dầu mưa nắng nhưng chất phác, chân thành. Trên cao, Đức Phật đang nhìn xuống với một nụ cười hiền hậu. Và trong tay Phật, có một cành sen không lời.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/03/2017(Xem: 8185)
Mỗi sáng Chủ Nhật , quý Sư ở tu viện Santi Forest Monastery thường chuẩn bị rời chùa, đi xuống phố hoặc vào làng khất thực. Gọi là “đi khất thực”, nhưng thực sự nên gọi là “đi gieo duyên” với quần chúng địa phương thì đúng hơn, cư dân nơi đây, họ là những người Úc thuần túy, Phật giáo đối với họ là một tôn giáo hoàn toàn xa lạ, có thể họ chỉ nghe qua cái tên “ Buddhism “ mà không hề biết đó là gì ?
21/03/2017(Xem: 5587)
Đây là một tập bút ký, ghi lại cảm nghĩ của tác giả từ các nơi chốn tùng lâm ở Nhật Bản, Trung Hoa, Việt Nam. Không hề có một so sánh hay đánh giá ở đây, tất cả đều trình hiện như nó chính là nó. Chúng ta cũng vui đọc theo chân người đi, đôi lúc mình cũng là người đang đi như thế. Chiều thu muộn hay sáng hồng rực rỡ, một viên sỏi trong vườn thiền cũng chiếu rọi ánh tuyết lấp lánh. Tách trà xưa và nay cùng nâng lên để kỷ niệm giây phút tao phùng.
20/03/2017(Xem: 5197)
Đặt chân xuống phi trường Bordeaux, tôi thấy một cảm giác nao nao vui mừng và hối hộp. Tôi sắp đựơc gặp các huynh đệ và Thầy, tôi sắp đựơc trở về Làng Mai, nơi Thầy và Tăng Thân đã sinh ra tôi, đã cho tôi một hình tứơng sư cô trong tinh thần giải thóat. Nhìn ra ngòai cửa, các Thầy các sư cô đang vẫy tay chào đón chúng tôi, rồi quí‎ vị vào trong khu vực chuyển hành lí tiếp chúng tôi vận chuyển lên xe, về Làng.
20/03/2017(Xem: 5377)
Cuộc sống của chúng ta có những lúc cần phải suy gẫm về ý nghĩa về đạo lý làm người. Ngày xưa có một người gánh nước, mang trên vai hai chiếc bình. Trong hai bình ấy có một bình bị vết nứt, còn bình kia thì nguyên vẹn. Suốt một chặng đường dài từ nơi mé sông về nhà, chiếc bình nứt chỉ còn một nửa. Thời gian đã tròn ba năm, ngày nào cũng vậy, người gánh nước chỉ mang về đến nhà chỉ có một bình rưỡi nước.
28/02/2017(Xem: 12688)
Đó là câu chuyện về Ngài Geshe Lama Konchog Rinpoche qua đời năm 2001. Có nhiều chuyện kỳ lạ trở thành mầu nhiệm sau khi Ngài ra đi.
24/02/2017(Xem: 4002)
Một buổi xế trưa nắng hơi nghiêng về chiều, cái sân nhỏ trước hiên, nhờ bóng nhà đầy râm mát. Đàn gà ri -một mẹ, một bố và tám con- đang líu ríu bươi đất cát nơi chân hàng rào. Công việc thật thừa thãi, nhàm chán, tôi chắc chắn chúng chả tìm thấy gì trong đám cát khô cằn không một ngọn cỏ một bóng cây. Thế mà đã nhiều ngày, cứ giờ này, chúng lại luẩn quẩn quanh đấy, bươi đất cát, nô giỡn ra điều thích thú lắm. Không ai đoán được chúng rất tinh khôn. Vì vào giờ này, sau khi đánh một giấc ngủ trưa, tôi vẫn có thói quen mở nắp lon guigoz vốc một nắm gạo nàng hương mà tôi đã xay nhỏ bằng cối xay tiêu, một ít thóc, rồi thong thả ra sân chưa kịp cất tiếng…cộc...cộc…cộc…để gọi đàn gà ri, chúng đã ùa chạy tới, như một thói quen, đợi tôi cho ăn. Tôi rải gạo, thóc trên khoảng sân nhỏ bằng xi măng bên hông cửa ra vào. Những con gà ri con chỉ mới nở hơn tuần nay, lông trắng ngần, lăng xăng chạy theo bố mẹ, như những trái ping pong. Chúng vươn cánh và dù cố gắng nhiều lần để nhảy lên thềm nhà như
23/02/2017(Xem: 4587)
Họ đã kết hôn được 78 năm, người chồng 103 tuổi, người vợ 100 tuổi, họ vẫn ở bên nhau suốt ngần ấy năm tháng, mạnh khỏe và hạnh phúc. Trong ngày Valentine năm nay, câu chuyện về họ được biết tới, chia sẻ và gây cảm động.
22/02/2017(Xem: 36775)
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA CON TRAI CỦA TÔI (DALAI LAMA, MY SON) Tự truyện của mẫu thân Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 Tác giả: Diki Tsering Biên tập & giới thiệu:Khedroob Thondup Việt dịch: Thích Nguyên Tạng Diễn đọc: Quảng Thiện Duyên
05/02/2017(Xem: 4113)
Khi tôi lên giường, kim đồng hồ chỉ 23 giờ 30. Thông thường vào giờ này, vốn dễ ngủ, không mộng mị, nếu có, chỉ toàn giấc mơ hoa, không bao giờ gặp ác mộng, tôi đã ngáy khò khò; thế mà hôm nay, tôi trằn trọc mãi không ngủ được. Nằm trăn trở trong đêm, tôi lắng nghe âm thanh của đêm. Sài Gòn giờ này đã trả lại sự yên vắng cho nó. Không còn tiếng rao hàng, không còn tiếng người qua lại, không còn tiếng xe cộ? Lâu lắm mới có chiếc Honda xẹt ngang của vị nào đi chơi khuya về.
03/02/2017(Xem: 3822)
Thời gian đã vẽ thêm một vòng hào quang cho quá khứ thêm lộng lẫy đẩy lùi tất cả vào dĩ vãng trong một ngăn nào đó của bộ nhớ, và tuổi già thường hay hoài niệm những ngày cũ mà ngậm ngùi nuối tiếc. Tuổi già đối với những người khác không biết thế nào nhưng riêng tôi lại thích tham dự những buổi họp mặt với bạn bè cũ, gặp lại nhau biết bao mừng vui tràn ngập cả tâm tư. Tôi lại định cư tại một nước xa xôi lạnh lẽo, bạn bè ngày xưa không có, thành ra tôi cứ ao ước được bay đến những vùng trời khác. Nơi đó có những người bạn thời trung học thật tuyệt vời, là niềm an ủi cho mái tóc đã điểm bạc trong cuộc sống cách biệt quê người vạn dặm này. Tôi nhớ lại lần tôi qua Cali dự lễ kỷ niệm 50 năm xa trường. Đêm Đại hội đã để lại trong tôi quá nhiều cảm xúc, suy nghĩ; sự suy nghĩ với nhiều thứ pha trộn nhau. Với tôi, đó cũng là một sự hạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]