Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

35. Phật độ người em là Nan-đà

21/03/201103:50(Xem: 5711)
35. Phật độ người em là Nan-đà

TRUYỆN PHẬT THÍCH-CA
Đoàn Trung Còn biên soạn, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

HỒI THỨ NHÌ

35. PHẬT ĐỘ NGƯỜI EM LÀ NAN-ĐÀ

Phật có người em cùng cha khác mẹ là hoàng tử Nan-đa, đã được vua Tịnh-phạn chọn để nối ngôi trị vì thiên hạ. Hoàng tử Nan-đà đã đính hôn với công chúa Xuân-đà-ri-ca, một vị công chúa rất xinh đẹp.

Sau khi nghe Phật thuyết pháp mấy lần trong hoàng cung, Nan-đà sinh ra ngưỡng mộ đời sống xuất gia, và thấy không còn ưa thích những dục lạc, giàu sang của cõi trần nữa. Hoàng tử liền tâu xin với vua cha xin được xuất gia theo Phật.

Thoạt tiên, vua Tịnh-phạn thấy rất phiền lòng. Vua nghĩ không biết lấy ai đủ tài đức mà kế vị ngai vàng. Nhưng rồi vua nhớ đến những lời Phật dạy, vua nhớ đến hình ảnh ngày nào thái tử Sĩ-đạt-ta dũng mãnh ra đi, để đến nay thành đạo quay về, và vua tự trách mình còn rất nhỏ nhoi, vị kỷ. Vua liền đồng ý cho Nan-đà xuất gia theo Phật.

Với tâm tánh còn bồng bột, ý chí chưa kiên định, nên mặc dù hết lòng ngưỡng mộ Phật và rất tinh tấn trong đời sống xuất gia, nhưng chỉ hai tháng sau thì Nan-đà có phần thối chí. Chàng cảm thấy ray rứt nhớ đến vị hôn thê xinh đẹp sắp cưới của mình.

Phật quán xét tâm tánh của Nan-đà, biết em mình có đủ căn duyên xuất gia, nhưng chỉ vì công phu tu tập chưa bao nhiêu nên lòng trần còn lay động. Ngài liền đến thăm Nan-đà để nâng đỡ em trong lúc yếu lòng.

Khi đến gặp Nan-đà, Phật thuyết giảng cho em biết được những tình cảm nào là nhất thời, tạm bợ, và những tình cảm nào là chân thật, lâu dài. Ngài cũng chỉ ra rằng, một vị tướng cầm quân ra trận thắng muôn ngàn quân địch, cũng không dõng mãnh bằng một người có thể dùng thiền quán mà nhiếp phục tâm mình, chế ngự được những tình cảm yếu mềm. Và chỉ khi đó đấng nam nhi mới có thể làm nên những việc phi thường, to tát.

Khi Phật ra về, Nan-đà liền lấy hết tinh thần mà tập trung thiền quán. Trong đêm ấy, chàng nhận ra sự giả tạo phù phiếm của những vẻ đẹp thế gian, và cũng tự nhận ra mình bị cuốn hút bởi chính vẻ đẹp tạm bợ ấy chứ không phải là một tình cảm yêu thương chân thật.

Nan-đà liền giũ sạch tất cả những tâm tưởng phiền muộn, thoái chí, và tự cảm nhận rõ được sự cao đẹp, thanh thoát của đời sống xuất gia.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/11/2011(Xem: 4309)
Tôi có ý nghĩ viết thành tập sách này vào đầu năm nay 97, nhân kỷ niệm mười năm tôi được xuất gia học đạo. Mười năm thường là cái mốc thời gian đáng nhớ cho những sự cố gì xảy ra trong một đời người. Sự cố ấy mang ý nghĩa của đổi thay dù sự đổi thay đó mang tính cách thế tục hay xuất thế. Trong đạo thầy đã dạy tôi rằng: "Sau một thời gian tu tập con cần nên cứu xét lấy mình, ngắn thì mỗi năm, dài thì năm năm, mười năm. Sau khoảng một thời gian dài ấy mà con thấy có niềm tin hơn, ý chí hơn trong sự tu tập thì đó là con đã tiến bộ. Giảm niềm tin, thiếu tinh tấn chính là con đã lui sụt. Tu tập mà không tiến bộ tức là thua sút, yếu hèn, phụ bạc công ơn thầy tổ nuôi nấng và sự thọ nhận cúng dường của đàn na thí chủ".
04/11/2011(Xem: 4046)
Tiếng súng nổ từ xa, dù lớn dù nhỏ, vẫn là chuyện thông thường không thắc mắc đối với dân Quảng Ngãi trong thời chiến tranh. Nhưng đêm nay, đêm mồng một Tết, tiếng súng nổ bên tai làm cả nhà tôi bàng hoàng. Không ai bảo ai đều giật mình thức giấc rồi chạy ào xuống nhà núp dưới chân cầu thang. Tiếng súng nổ gần quá, tôi nghe cả tiếng hô hoán: “Tiến lên!” giọng Bắc rặc của một người chỉ huy nào đó. Trời! Không lẽ mặt trận đang diễn ra trong thành phố? Tim tôi đập loạn xạ, dù mồ hôi vã ra, răng tôi vẫn đánh bò cạp. Tôi rúc vào lòng năm chị em gái và ba má của tôi. Tiếng khóc thút thít vì sợ hãi muốn oà ra nhưng tôi cố dằn lòng sợ địch quân nghe thấy. Ầm! Một trái pháo kích rớt trúng nhà phía sau của tôi. Ngói bể rơi loảng xoảng, khói đạn bay mịt mù. Tôi chỉ kịp thét lên, ôm cứng lấy má tôi, hồn như bay khỏi xác. Đó là năm Mậu Thân 1968, lúc tôi 14 tuổi.
27/10/2011(Xem: 18255)
Bùi Giáng, Người viết sách với tốc độ kinh hồn
12/10/2011(Xem: 18914)
Truyện thơ Tôn giả La Hầu La - Tác giả: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
01/10/2011(Xem: 7232)
Hàng ngũ phật tử thường được chia là phật tử tại gia và phật tử xuất gia. Các phật tử tại gia thường được gọi là cư sĩ. Trong lịch sử đạo Phật có ghi lại chuyện một số các vị cư sĩ nổi tiếng, tuy các vị ấy không xuất gia nhưng về phương diện tu hành, thấu hiểu đạo lý thì không thua kém gì các vị đã xuất gia. Có nhiều vị cư sĩ nổi tiếng nhưng bài này chỉ xin nhắc đến ông Duy Ma Cật, bà hoàng hậu Thắng Man, cư sĩ Huệ Năng lúc chưa xuất gia và sau đó đến gia đình ông Bàng Uẩn.
25/09/2011(Xem: 3783)
Lời hát ru nhẹ nhàng mà trầm buồn da diết ấy đi vào trong cả giấc mơ của Hiền. Bao lần chị giựt mình thảng thốt ngồi bật dậy… ngơ ngác nhìn quanh. Chẳng có gì khác ngoài bóng đêm lạnh giá bao trùm hai dãy xà lim hun hút. Chốc chốc vẳng lại tiếng thạch sùng chặc lưỡi, tiếng chí chóe của mấy chú tí ưa khuấy rối trong xó tối. Và cả tiếng thở dài của ai đó dội qua mấy bức tường xanh rêu im ỉm…
24/09/2011(Xem: 2802)
Ngày xưa có một chàng trai tên là Na Á. Anh mồ côi cha từ sớm, ở với mẹ già. Nhà Na Á nghèo, anh phải làm nghề đánh cá để nuôi thân, nuôi mẹ.
24/09/2011(Xem: 2827)
Một hôm em bé ngồi trong bóng cây trú nắng, gió cũng thổi mát quá, em ngủ quên, đến lúc thức dậy, thì đàn trâu đã đi mất. Em tìm khắp cánh đồng mà chẳng thấy.
21/09/2011(Xem: 2810)
Tờ Chú (có nghĩa là anh đen) nghèo nhất làng. Họ nghèo lắm, nghèo đến nỗi không có một con dao mẻ để phát nương, một cái thuổng để đào củ mài.
21/09/2011(Xem: 2665)
Ngày xưa, ở xã Đại An gần cù lao Huân tỉnh Khánh Hòa có một đôi vợ chồng già không có con cái. Ông bà ở trong một căn nhà lá dựng bên vách núi, làm nghề trồng dưa.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]