Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

24. Những đệ tử đầu tiên

21/03/201103:50(Xem: 5590)
24. Những đệ tử đầu tiên

TRUYỆN PHẬT THÍCH-CA
Đoàn Trung Còn biên soạn, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

HỒI THỨ NHÌ

24. NHỮNG ĐỆ TỬ ĐẦU TIÊN

Khi ấy, đức Phật quyết định sẽ truyền bá rộng rãi giáo lý mà ngài đã chứng đắc. Ngài nghĩ rằng, như dưới một cái hồ sen kia, nở ra các thứ hoa xanh, hoa trắng, có hoa còn ở dưới nước, có hoa đã nổi lên trên, lại có hoa vượt lên thật cao mà không thấm nước; chúng sanh cũng như thế, có người thanh bai, có kẻ ô trược, có người lanh lợi, có kẻ chậm lụt, có người cao thượng, có kẻ thấp hèn, có người sẽ hiểu đạo, có kẻ lại không thông. Ngài suy nghĩ mà thương tất cả, xem các chúng sanh ấy bình đẳng như nhau, đều là những đóa hoa sen, dù đã nở ra, hoặc chìm dưới nước, hoặc vươn trên trời.

Ngài liền rời khỏi cội cây bồ-đề, đi về phía xóm làng để khất thực.

Bấy giờ có hai anh em nhà kia, tên là Đế-lê-phú-bà và Bạt-lê-ca, đi buôn xa trở về. Họ đem theo năm trăm cỗ xe, vừa đến chỗ đoạn đường Phật đang đi khất thực.

Hai người vừa trông thấy đức Phật, dung mạo uy nghi, bước đi khoan thai, hào quang rạng chiếu, thì liền sinh lòng kính ngưỡng vô cùng. Họ hỏi nhau rằng:

“Vị tu sĩ này có muốn dùng thức ăn của chúng ta chăng?”

Hai người liền trở lại xe, lấy bánh trái và thức ăn mà dâng lên. Đức Phật thọ nhận lấy và nói pháp cho họ nghe.

Hai chàng vui mừng tin nhận, được Phật cho thọ lễ quy y Phật và quy y Pháp. Đây là hai vị đệ tử cư sĩ đầu tiên.

Khi ấy, Phật muốn trở lại cứu độ cho hai ông thầy cũ là ông A-ra-ta Ca-la-ma và ông Uất-đầu Lam-phất, nhưng ngài quán xét biết hai ông đều đã tạ thế hồi gần đây.

Ngài liền nhắm hướng thành Ba-la-nại mà đi đến, vì ngài biết nhóm ông Kiều-trần-như năm người hiện đang ở đó, trong khu vườn có tên là Lộc Uyển.

Ngài đi đến núi Già-da, gặp một tu sĩ tên là U-ba-ca. Vị này trông thấy đức Phật tướng mạo uy nghi, hình dung khác thường, lấy làm kính ngưỡng, liền lễ bái và thưa hỏi:

“Xin ngài cho tôi biết ngài là ai? Và ai là thầy của ngài?”

Đức Phật đáp:

“Ta là bậc giác ngộ, là kẻ tỉnh thức. Không có ai là thầy của ta cả.”

Đức Phật đến thành Ba-la-nại, vào thành mà hóa trai. Rồi ngài đến Lộc Uyển, chỗ cư ngụ của năm người trong nhóm ông Kiều-trần-như, những người ngày xưa đã cùng ngài tu khổ hạnh ở trong rừng.

Cả năm người thấy ngài từ xa đã nhận biết và bàn với nhau rằng: “Chính là người mà trước đây đã thối chí nơi rừng Khổ hạnh. Ông ấy không đủ sức theo đuổi đường tu như chúng ta, không đáng để cho ta kính trọng. Khi ông ấy đến đây, ta không cần phải tiếp rước, không cần phải đứng dậy chào, không cần phải mời ngồi.”

Họ cùng sắp đặt với nhau như vậy. Nhưng khi đức Phật khoan thai bước đến, dáng uy nghiêm của ngài như có một mãnh lực khiến bọn họ đều phải đứng cả lên. Rồi họ cùng vái chào đức Phật, người nâng lấy áo, người cầm bình bát, người mời ngồi, và có người mang nước đến rửa chân cho ngài.

Đức Phật ngồi yên và rửa chân xong, bèn nói với năm người ấy rằng:

“Này các vị! Ta đã tìm được đạo giải thoát. Ta là bậc đã giác ngộ hoàn toàn. Nếu các ngươi lắng nghe ta, ta sẽ dạy cho các ngươi chân lý đưa đến sự giải thoát.”

Cả năm người đồng thanh hỏi rằng:

“Ngày xưa, ngài tinh cần trong phép tu khổ hạnh mà chẳng thành đạo quả. Ngày nay, ngài đã từ bỏ lối sống ấy mà chạy theo vật thực, làm thế nào có thể thành đạo được?”

Đức Phật mỉm cười hiền hòa, giải thích:

“Này các vị! Ta chẳng hề chạy theo cuộc sống vật thực, mà là ta đã chứng nghiệm được con đường đúng đắn để tu tập.

“Này các vị! Sự khổ hạnh, hành hạ xác thân cũng tai hại không kém gì ham mê dục lạc, vùi sâu trong sự hưởng thụ. Người sáng suốt phải biết tránh cả hai con đường ấy, biết nuôi dưỡng thân thể vừa đủ, khỏe mạnh để làm phương tiện mà tu dưỡng tâm ý, thì mới có thể đạt đến chỗ giải thoát.”

Nghe lời giải thích của ngài, năm người trong nhóm Kiều-trần-như đều lấy làm kính phục. Họ đồng loạt quỳ xuống thưa rằng:

“Kính bạch đức đạo sư! Ngài là người đã soi sáng tâm trí cho chúng con, chỉ ra con đường đúng đắn để chúng con đi theo, từ bỏ những hiểu biết sai lầm trước đây. Kể từ nay, xin ngài nhận chúng con làm đệ tử mà truyền dạy cho đạo giải thoát.”

Đức Phật hoan hỷ nhận lời.

Và đó là năm vị đệ tử xuất gia đầu tiên của Phật, năm thành viên đầu tiên của giáo hội Tăng-già.

Từ đó bắt đầu sự hiện hữu của ngôi Tam bảo ở chốn thế gian này.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/02/2015(Xem: 4676)
Một trong tôn giáo cổ xưa Có thầy tu nọ rất ưa tế thần Tuy ông nổi tiếng xa gần Nhưng mà mê muội tâm thần nhiều thay. Một hôm ông chọn dê này Cho rằng thích hợp, giết ngay tế thần Nghĩ suy lầm lạc vô ngần:
25/01/2015(Xem: 6598)
Tác phẩm Một Đóa Sen, được diễn nói về vận hành tầm sư học đạo của Sư bà Thích Nữ Diệu Từ, thật là gian truân trăm bề, được thấy từ khi mới vào “Thiền Môn Ni Tự” ở các cấp Khu Ô Sa Di, Hình Đồng Sa Di, ứng Pháp Sa Di và Tỳ Kheo Ni ở tuổi thanh niên mười (10) hạ lạp rồi, mà vẫn còn gian nan trên bước đường hành hoạt đạo Pháp. Nhưng Sư bà vẫn định tâm, nhẫn nhục , tinh tấn Ba la mật mà tiến bước lên ngôi vị Tăng Tài PGVN ở hai lãnh vực văn hóa quốc gia và Phật Giáo Việt Nam một cách khoa bảng. Nếu không nói rằng; tác phẩm “Một Đóa Sen và Pháp thân” của Sư bà Diệu Từ, là cái gương soi cho giới Ni PGVN VN hiện tại và hậu lai noi theo…
24/01/2015(Xem: 4828)
Mỗi sáng sớm khi sương còn mù mịt trên sông, chiếc thuyền con của lão già đã là đà rẽ nước, hướng về bờ – lúc thì bờ đông, lúc thì bờ tây, nơi những ngôi nhà tranh và những chiếc ghe nhỏ tụ tập. Mái chèo khua nhè nhẹ như thể sợ động giấc ngủ của thế nhân. Chẳng ai biết chắc lão có gia đình, nhà cửa ở đâu hay không. Nhưng người ta có thể đoán chiếc thuyền con ấy chính là nhà của lão, vì lão phơi thuốc, xắc thuốc, nấu thuốc ngay trên đó. Trên thuyền không còn ai khác. Ban đêm, thuyền của lão neo ở đâu không ai biết, nhưng sáng sớm thì thấy lù lù xuất hiện trên sông hoặc nơi bờ cát. Lão già đến và đi, một mình. Mỗi ngày xách cái túi nhỏ rời thuyền, thường là đi hái thuốc trên núi, ven rừng, bờ suối, có khi vào làng chữa bệnh cho bá tánh rồi ghé chợ mua vài thứ lĩnh kĩnh.
21/01/2015(Xem: 10075)
1. Chân như đạo Phật rất mầu Tâm trung chữ Hiếu niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân Nhân là cứu độ trầm luân muôn loài. 5. Thần thông nghìn mắt nghìn tay Cũng trong một điểm linh đài hóa ra,
16/01/2015(Xem: 3613)
Sau 30-4-75, tất cả giáo chức chúng tôi đều phải đi học tập chính trị trong suốt 3 tháng hè mà họ gọi nôm na là "bồi dưỡng nghiệp vụ". Một buổi chiều sau mấy ngày "bồi dưỡng", tôi đạp xe lang thang qua vùng Trương minh Giảng, tình cờ gặp Báu - một người học trò năm xưa, rất xưa, đang ngơ ngẩn đứng trước cửa nhà. Dừng xe đạp, tôi chào: - Báu hả? Phải em là Trương thị Báu không? Có nhớ ra cô không? Báu giương mắt nhìn tôi, nhìn đi nhìn lại rồi nghiêng đầu lại nhìn...Em không nhớ nổi... Tôi đã thoáng thấy được một tâm thần bất thường qua thần sắc cũng như qua đôi mắt trống rỗng vô hồn!
16/01/2015(Xem: 4814)
Năm 1954 ông Thiện khăn gói đùm đề đưa mẹ, vợ và hai đứa con gái xuống con tàu há mồm vào Nam.Trên bờ, Thụ, người em trai của ông còn đưa tay vẫy vẫy. Đêm hôm qua, ông và người em trai bàn rất nhiều về chuyến ra đi này.Người em nói: - Đất nước đã hòa bình, độc lập, anh nên ở lại, dù gì cũng là nơi chôn nhau cắt rốn.Vào Nam xứ lạ quê người, chân ướt chân ráo trăm bề khổ sở... Ông Thiện đã trả lời em:
15/01/2015(Xem: 5045)
Trong cả thành phố này, anh chị chỉ có tôi là chỗ thân nhất, vừa là thầy vừa là bạn. Buổi sáng anh gọi phone bảo trưa nay đến đón tôi về nhà dùng cơm cho vui. Hôm nay là sinh nhật của thằng Alexander con một của anh chị.
14/01/2015(Xem: 7502)
Tiếng Hồng chung Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang nói riêng và các chùa trong thành phố Nha trang nói chung, sớm khuya ai cũng có thể nghe được, nhưng nghe để “Trí tuệ lớn” và “Bồ-đề sinh” thì tùy theo “phiền não” của đối tượng nghe có vơi nhẹ hay không? Riêng với nhà văn Võ Hồng, qua tác phẩm “Tiếng chuông triêu mộ” cho thấy Trí tuệ và Bồ đề của ông sanh trưởng tốt. Nhưng nhân duyên như thế cũng chưa đủ, ông là giáo sư của PHV, của trường Bồ Đề, là thiện tri thức của các bậc cao Tăng ở đồi Đông và đồi Tây non Trại Thủy. Có thế mới có truyện ngắn “Cây khế lưng đồi”, có tùy bút “Con đường thanh tịnh”. Thưa thầy Võ Hồng, chừng ấy đủ rồi, đủ cho PHV đi vào lịch sử văn học, đủ cho 100 năm sau, 1000 năm sau hay nhiều hơn thế nữa, nhìn thấy PHV uy nghi như một Linh Thứu thời Phật và cũng cho thấy các bậc cao Tăng Miền Trung nói riêng xứng đáng là những Sứ giả Như Lai đầy trách nhiệm đối với sự trường tồn của Phật giáo Việt Nam.
09/01/2015(Xem: 4212)
Tháng 10 năm 1962, TT Chủ Tịch Ủy Ban Liên Phái… nhờ Tôi đi công tác Vũng Tàu, Tôi đi chuyến xe đò lúc 8g30 sáng, xe chạy vừa khỏi hãng xi-man Hà Tiên, thì có 3 người đón xe. Anh tài xế nói với tôi : “Thầy vui lòng xuống hàng ghế phía dưới để cho “mấy cha”ngồi, vui nghen Thầy”! Tôi lách mình qua khoản trống thì có 2 vị đưa tay đón và đở nhường chỗ ngồi còn nói lớn: “Ngộ ha, cha quí hơn Thầy “! Tôi sợ gây chuyện không vui, nên đưa tay và lắc đầu xin yên lặng. Vì đương thời bấy giờ bóng dáng của các áo đen có nhiều sát khí thế lực! Nhưng, Mộc dục tịnh, nhi phong bất đình 木欲淨而風不亭.Xe chạy êm ả, gió lùa mát rượi.
26/12/2014(Xem: 13439)
Phât tử Chơn Huy ở Hoa Kỳ về có đem theo tập tự truyện dày của Tỳ Kheo Yogavacara Rahula. Cô nói truyện rất hay, khuyên tôi đọc và nhờ tôi dịch ra Việt ngữ để phổ biến trong giới Phật tử Việt Nam. Câu chuyện rất lý thú, nói về đời của một chàng trai Mỹ đi từ chỗ lang bạt giang hồ đến thiền môn. Truyện tựa đề "ONE NIGHT'S SHELTER (From Home to Homelessness)--The Autobiography of an American Buddhist Monk". Tôi đọc đi rồi muốn đọc lại để thấu đáo chi tiết trung thực của một đoạn đời, đời Thầy Yogavacara Rahula. Nhưng thay vì đọc lại, tôi quyết định dịch vì biết rằng dịch thuật là phương pháp hay nhứt để hiểu tác giả một cách trọn vẹn. Vả lại, nếu dịch được ra tiếng Việt, nhiều Phật tử Việt Nam sẽ có cơ duyên chia sẻ kinh nghiệm quý báu của Thầy Rahula hơn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]