Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương XI: Những trường hợp phục sinh

10/03/201105:29(Xem: 8209)
Chương XI: Những trường hợp phục sinh

XỨ PHẬT HUYỀN BÍ
Nguyễn Hữu Kiệt dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

CHƯƠNG XI: NHỮNG TRƯỜNG HỢP PHỤC SINH

Một hôm, sư phụ Śrỵ Yukteswar và một nhóm đệ tử đang ngồi bàn luận về đạo lý. Tôi từ Ranchi vừa về thăm thầy, có dẫn theo một nhóm học sinh ở Thiếu Sinh Học Đường.

Trong khi sư phụ và chúng tôi đang nói chuyện, nhóm học sinh của tôi bắt đầu tranh cãi ngày càng lớn tiếng về một đề tài khá lý thú: có hay không có việc phục sinh của chúa Giê-su.

Vì các em nói lớn tiếng nên tất cả chúng tôi đều nghe thấy. Sư phụ Śrỵ Yukteswar liền bảo tôi gọi các em vào giảng đường. Sau khi sắp xếp cho các em ngồi quây quần chung quanh, thầy mới vui vẻ nói:

– Ta không đứng về phía nào trong các con cả, nhưng ta muốn kể cho các con nghe một chuyện mà chính ta đã chứng kiến, cũng có thể xem là một trường hợp phục sinh.

Lời nói của thầy có tác dụng rất lớn. Ngay lập tức các em im phăng phắc, không còn một tiếng xì xào bàn tán nào nữa cả. Tất cả đều hết sức chú ý lắng nghe. Thầy bắt đầu kể:

– Ngày ấy, ta còn đang tu tập bên cạnh đức thầy Lahiri Mahsaya. Ta có một người bạn tu rất thân thiết tên là Rma. Tính tình anh ta rất nhút nhát, ít giao tiếp vì thích sống cô độc. Ngay cả khi có thắc mắc cần đến sự giải thích của đức thầy Lahiri Mahsaya, anh cũng chỉ đến gặp thầy vào những lúc đêm khuya hoặc sáng sớm, khi có ít các đệ tử khác quy tụ bên cạnh đức thầy. Mặc dù vậy, Rma có một kinh nghiệm tâm linh khá vững chãi và rất tinh tấn trong việc tu học.

Sư phụ Śrỵ Yukteswar dừng lại, khuôn mặt lộ vẻ xúc cảm khi nhớ lại chuyện cũ:

– Ngày kia, Rma bất ngờ đau nặng. Các bác sĩ giỏi đều được mời đến, nhưng bệnh tình không có vẻ gì là khả quan lắm. Rma ngày càng suy yếu một cách nhanh chóng. Khi ấy, ta liền đến tìm đức thầy Lahiri Mahsaya và khẩn cầu người cứu lấy tính mạng của Rma. Thầy yên lặng một lát rồi nói: “Các bác sĩ đang tận tình cứu chữa. Con cứ yên tâm, Rma rồi sẽ khỏi bệnh.” Nhưng khi ta trở lại chỗ giường bệnh của Rma thì một trong hai vị bác sĩ thất vọng thông báo: “Vị tu sĩ này chỉ còn sống được khoảng vài giờ nữa thôi.” Quá hốt hoảng, ta trở lại với đức thầy Lahiri Mahsaya để chuyển đạt tin dữ này, nhưng thầy có vẻ như không quan tâm. Thầy nói: “Rma rồi sẽ khỏi bệnh.”

Sư phụ Śrỵ Yukteswar lặng yên một lúc rồi mới kể tiếp:

– Khi ta quay lại phòng của Rma thì các bác sĩ đã bỏ về. Họ để lại một mảnh giấy ghi mấy dòng vắn tắt: “Chúng tôi đã cố gắng hết sức. Nhưng rất tiếc là trường hợp này không thể nào cứu chữa được nữa.” Khi ấy, Rma đang hấp hối. Nhưng ngay trong lúc ấy anh mở mắt nhìn ta và nói: “Yukteswar, anh hãy nhớ nói với sư phụ cầu phúc cho tôi trước khi hỏa táng.” Nói xong lời trăn trối này rồi, Rma liền trút hơi thở cuối cùng.

Một đệ tử từ bên ngoài vào mang cho sư phụ một tách trà nóng. Người dừng lại để nhấp một ngụm trà rồi tiếp tục:

– Ta liền đến chỗ đức thầy Lahiri Mahsaya để báo tin về cái chết của Rma. Thầy vẫn lặng thinh không tỏ vẻ lo lắng gì. Một lát, thầy bảo ta: “Yukteswar, con hãy giữ bình tĩnh. Mọi việc rồi sẽ qua đi.” Vẫn không hiểu được ẩn ý trong câu nói của thầy, ta òa lên khóc vì sự đau đớn đã kiềm chế quá lâu. Rma dù sao cũng là người bạn thân nhất của ta trong đạo viện.

Cả giảng đường không còn một tiếng động nào khác ngoài tiếng kể chuyện trầm trầm của sư phụ. Tất cả mọi người dường như đều nín thở lắng nghe:

– Đức thầy Lahiri Mahsaya lặng lẽ để yên cho ta bộc lộ cảm xúc. Một lát sau, khi ta đã nguôi bớt cơn xúc động, thầy nói: “Śrỵ Yukteswar, ta rất buồn mà thấy con đã không có đủ đức tin.” Ta vô cùng kinh ngạc, ngẩng lên nhìn thầy. Thầy Lahiri Mahsaya nói tiếp: “Chẳng phải là ta đã bảo với con Rma sẽ khỏi bệnh hay sao?” Rồi thầy nhìn quanh, chỉ tay vào một cái đèn dầu phộng đang đặt trên mặt bàn: “Giờ thì con hãy lấy dầu trong đèn này, nhỏ vào miệng Rma đúng 7 giọt.” Ta càng thêm quá sức ngạc nhiên, buột miệng kêu lên: “Bạch thầy, nhưng Rma đã chết lâu rồi!” Thầy Lahiri Mahsaya nhìn ta và nói: “Ta thấy là con vẫn còn chưa có đủ đức tin.”

Sư phụ trầm ngâm một lát, rồi quay sang nhìn tôi. Tôi thầm hiểu được ý nghĩa cái nhìn của người.

– Ta tự biết lỗi ngay lúc ấy, liền quỳ xuống xin sám hối. Thầy Lahiri Mahsaya cười hoan hỷ rồi bảo: “Thôi con đi đi.” Ngay lập tức, ta đến chỗ Rma và làm đúng như lời thầy dặn. Khi ấy, thân thể Rma đã cứng đờ vì tắt hơi quá lâu rồi. Thật không thể nào ngờ được, ngay sau đó Rma co giật mấy cái rồi từ từ mở mắt ra. Trong khi ta còn chưa thể tin hẳn vào mắt mình, thì Rma đã từ từ ngồi dậy và nói: “Anh Yukteswar, tôi phải đi đến chỗ sư phụ ngay bây giờ.”

Tôi nghe rõ tiếng thở ra thật mạnh của các em thiếu sinh khi nghe sư phụ kể đến đoạn này. Quả thật, nếu không phải chính miệng sư phụ nói ra thì thật khó lòng tin được một câu chuyện như thế. Sư phụ Śrỵ Yukteswar lại tiếp tục:

– Khi ta và Rma đến chỗ thầy Lahiri Mahsaya, cả hai đều quỳ lạy. Rma muốn tạ ơn cứu mạng, còn ta thật hết sức ân hận vì thấy mình quả thật đã chưa có đủ đức tin. Thầy Lahiri Mahsaya nói: “Śrỵ Yukteswar! Lẽ ra Rma đã không phải chết. Nhưng cái chết của bạn con là một bài học về đức tin cho con đó.” Ta cúi đầu ghi nhớ lời dạy ấy. Và từ đó về sau, ta chẳng bao giờ nghi ngờ bất cứ điều gì thầy Lahiri Mahsaya nói ra.

Một em thiếu sinh lúc đó liền đứng lên thưa hỏi:

– Bạch tôn sư, có phải việc phục sinh đã nhờ đến 7 giọt dầu phộng?

Sư phụ Śrỵ Yukteswar bật cười:

– Không phải là dầu phộng, mà thật ra là có thể dùng bất cứ món gì. Vấn đề là thầy Lahiri Mahsaya muốn tạo ra một điểm tựa cho kẻ còn kém đức tin mà thôi. Nếu không thế, chỉ cần một lời nói hoặc ý nghĩ của thầy là mọi việc sẽ diễn ra, chứ không phải phụ thuộc vào dầu phộng hay một món thuốc men nào khác cả!

Sau khi các em thiếu sinh đã được cho ra ngoài, sư phụ Śrỵ Yukteswar gọi tôi lại và nói:

– Ta biết con đang thu thập rất nhiều chuyện kể về đức thầy Lahiri Mahsaya. Điều đó sau này có thể trở thành một trong những phương tiện rất tốt để giúp con truyền pháp. Ta muốn rằng con hãy viết lại một tiểu sử của đức thầy Lahiri Mahsaya để phổ biến cho mọi người đều được biết.

Tôi cúi đầu vâng lời thầy dạy. Tự trong thâm tâm, tôi cũng đã cảm thấy cần phải ghi lại một cách chi tiết và cụ thể về cuộc đời của bậc tôn sư siêu việt này. Bởi vì ngài đã từ trần từ năm 1895, và có nguy cơ thời gian sẽ làm phai mờ đi tất cả những gì linh diệu và mầu nhiệm mà ngài đã thực hiện ở thế gian này. Tôi tự nhủ sau này sẽ viết lại tất cả những gì tôi đã được biết về thầy Lahiri Mahsaya. Và đó cũng là một trong những động cơ thúc đẩy tôi thực hiện tập hồi ký này.

Đức thầy Lahiri Mahsaya ra đời vào ngày 30 tháng 9 năm 1828, tại làng Ghurni, huyện Nadia, gần Krishnagar, thuộc tỉnh Bengale. Gia đình thuộc dòng tộc Bà-la-môn, ngài là con út của ông Gaur Mohan Lahiri và người vợ kế là Muktakashi, được cha mẹ đặt cho tên gọi là Shyama Charan Lahiri. Ngay khi ngài còn thơ ấu thì người mẹ đã sớm rời bỏ cõi đời. Những năm đầu đời ngài sống tại huyện Nadia và đã biết ngồi thiền từ khi mới được ba tuổi.

Năm năm sau khi ngài ra đời, tức là vào năm 1833, một trận lụt lớn đã xảy ra và nước sông Jalangi cuốn trôi làng mạc của cải đổ về sông Hằng. Tài sản của gia đình Lahiri và một ngôi đền thờ do họ xây dựng đã sụp đổ hoàn toàn.

Ông Gaur Mohan Lahiri khi ấy liền đưa gia đình rời khỏi Nadia và đến định cư tại Bénarès. Về sau, ông cũng xây dựng ở đây một ngôi đền thờ khác. Ông giáo dục con cái theo đạo lý và đặc biệt chú ý thực hành hạnh bố thí. Điều đặc biệt là ông có một kiến thức rất bao quát và thông thạo cả những tri thức thời hiện đại vừa mới du nhập vào xứ Ấn.

Shyama Charan Lahiri là một cậu bé rất thông minh, được cha cho theo học hầu hết các môn triết lý cổ và cả kinh Phệ-đà theo truyền thống Bà-la-môn. Cậu thường biện bác thắng được cả những người rất uyên bác về các môn học này. Lớn lên, trở thành một thanh niên tốt bụng, Shyama Charan Lahiri phát triển thể lực rất mạnh mẽ, giỏi bơi lội và các môn thể thao khác nữa.

Năm 1846, việc hôn nhân được gia đình sắp xếp giữa chàng trai Lahiri và cô Kashi Moni, con gái của một gia đình danh tiếng trong vùng. Gia đình sống rất hạnh phúc vì bà Kashi Moni đã trở thành một người vợ mẫu mực chu toàn mọi trách nhiệm trong gia đình. Họ sinh được hai người con trai là Tincuri và Ducuri.

Năm 1851, Shyama Charan Lahiri nhận công việc kế toán cho một bộ phận quản trị hành chánh của quân đội Anh. Ông liên tục được thăng chức rất nhiều lần trong thời gian phục vụ, và cũng do đó mà đã lần lượt thuyên chuyển qua rất nhiều nơi như Gazipur, Mirijapur, Danapur, Naini Tal, Bénarès... Khi gia đình đến sống ở Garudeswar Mohulla thì ông Gaur Mohan Lahiri qua đời. Shyama Charan Lahiri phải đảm trách tất cả mọi công việc gia đình.

Năm 33 tuổi, Shyama Charan Lahiri gặp được tôn sư Babji ở gần Ranikhet, trên dãy Hy Mã Lạp Sơn. Từ đó ngài được truyền thụ pháp môn thiền định. Là một người có căn cơ siêu phàm xuất chúng, không bao lâu ngài đã tiếp thu được hoàn toàn những điều chỉ dạy của tôn sư và được chân truyền để nối tiếp việc truyền thừa pháp môn thiền định, trở thành đức thầy Lahiri Mahsaya.

Bằng vào kinh nghiệm thực chứng của bản thân, đức thầy Lahiri Mahsaya đã tiếp nhận và dắt dẫn hàng ngàn môn đệ, khiến cho pháp môn thiền định được truyền rộng ra khắp nơi. Ngài có rất nhiều đệ tử tu tập thành công mà trong số đó thì sư phụ Śrỵ Yukteswar là một điển hình.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/08/2019(Xem: 9218)
Truyện Cổ Tích "Con Chim Tu Hú", Mùa mưa là khoảng thời gian tuyệt vời để những mầm sống mới bắt đầu hồi sinh trên các cánh rừng mưa nhiệt đới. Loài thực vật khoác trên mình tấm áo mới xanh non và đâu đó trong rừng, các vùng đất ngập nước, từng bụi lau, sậy cũng vươn mình phát triển. Đó là nơi trú ngụ, làm tổ lý tưởng của một số loài chim chích đầm lầy thuộc giống Locustella.
05/08/2019(Xem: 7611)
Galilê là nhà khoa học nổi tiếng thời Cổ đại, ông sinh ra ở thành Pisa Italia. Suốt đời ông theo đuổi chân lý, hiến thân cho khoa học, dám giữ vững nguyên tắc của mình. Đầu tiên ông đưa ra nguyên lý quán tính, khái niệm lực và gia tốc, là người mở đường cho lực học kinh điển và vật lý học thực nghiệm. Ông là người đầu tiên dùng kính viễn vọng quan sát các thiên thể, chứng minh và phát triển thuyết mặt trời là trung tâm vũ trụ của Côpecnich. Ông được người đời sau mệnh danh là “Cha đẻ của khoa học cận đại”. Galilê là nhà khoa học nổi tiếng thời Cổ đại, ông sinh ra ở thành Pisa Italia. Suốt đời ông theo đuổi chân lý, hiến thân cho khoa học, dám giữ vững nguyên tắc của mình.
02/08/2019(Xem: 8165)
Lời người dịch: Thấm thoát mà đã năm Mùa Vu Lan vắng bóng Ba tôi cũng như chỉ còn vài tuần nữa cũng là Ngày Vinh Danh Cha tại Úc Châu, QT xin chia sẻ vài câu chuyện cảm động về tình cha kính tặng Hương Linh Ba tôi và những người làm Cha vào ngày Lễ đặc biệt này. Một cậu bé luôn được Ba nuông chiều và sắp tốt nghiệp tuần tới. Vài tuần trước, cậu thấy một chiếc xe thể thao đẹp ở phòng trưng bày và muốn người Ba giàu có tặng cho mình vào dịp này.
29/07/2019(Xem: 3491)
Cô iên (Yên) nguyên là hiệu trưởng trường Hùng Vương, TP Ty Quà (Tuy Hòa) tỉnh Phú iên, Chị iên cũng là hinh trưởng (huynh trưởng GĐPT Bảo Tịnh) gọi qua và nói: Thầy Nghiện (Nguyện) chị Diên chỉ bị bịnh, hổm rày chỉ chờ Thầy gọi dìa (về) cho chỉ dui (vui), chờ quài (hoài) mà không thấy, chỉ giận chỉ nói ông Nghiện ổng đi qua bển rầu (rồi) đâu có nhớ gì ở đây đâu, tao và bà Thỉ (Thủy) chờ ổng gọi hỏi thăm, chờ miết thấy ghét, thâu Thầy gọi liền cho chỉ đi, chắc chỉ dui lắm đó.
28/07/2019(Xem: 6557)
Bây giờ ở nơi đây mỗi lần con bị cảm : lên chợ mua bịch lá xông , nấu sôi trong nồi cơm điện , rồi phủ mền , xông , bệnh cũng hết , nhưng lúc nào con cũng nhớ về Thầy , bóng Thầy hao hao gầy , đưa cây khèo quéo kéo lá khuynh diệp hay lá tre , rồi nhón chân lên hái lá , nấu nước xông
19/07/2019(Xem: 3816)
Ngày không như mọi ngày, đó là ngày gì? Đó là ngày có một sự kiện đặc biệt sau nhiều năm trở lại với chúng ta, những người định cư tại Âu Châu: Chương trình của Phái Đoàn Hoằng Pháp Âu Mỹ do Hòa Thượng Phương Trượng chùa Viên Giác tổ chức kiêm làm trưởng đoàn. Suốt cả tháng 6 năm 2019, Phái Đoàn Hoằng Pháp giảng Pháp nhiều nước tại Âu Châu, trạm cuối cùng, từ ngày 21-23.6.2019, phân nửa về chùa Linh Thứu Berlin, phân nửa về Tu Viện Viên Đức tại Ravensburg Đức quốc. Tôi và Hoa Lan (bạn văn) tùy địa lý, được quí Thầy phân công chia địa bàn ra viết tường thuật. Hoa Lan may mắn trụ tại Berlin, thủ đô nước Đức. Đã là thủ đô hoa lệ vốn có nhiều tài tử giai nhân “ngựa xe như nước, áo quần như nêm” để diễn tả sự đông đúc của người qua, kẻ lại, lại còn có ngôi chùa Linh Thứu mới xây tráng lệ, uy nghi đã thu hút Phật tử khắp nơi, thêm Sư Bà Trụ Trì tên Phước mà còn là “Diệu” Phước giỏi giang, đảm đang nổi tiếng nên Hoa Lan nương theo đó mà hưởng được nhiều…phước.
11/07/2019(Xem: 6948)
Chúng tôi được Thầy mở cho xem Video clip do Thượng Tọa Thích Hạnh Tuệ tri sự chùa Phật Đà ở San Diego cũng là Chủ Biên của trang nhà hoavouu.com ở Hoa Kỳ thực hiện ngày 21.01.2019 với tâm ý kính tặng HT Thích Bảo Lạc và HT Thích Như Điển, nhằm giới thiệu Thiền Lâm Pháp Bảo Úc Châu. HT Thích Bảo Lạc, Hội Chủ Giáo Hội Phật Giáo VNTN Hải Ngoại tại Úc Đại Lợi và Tân Tây Lan, cho biết Thiền Lâm Pháp Bảo là vùng đất thiêng đã được xây dựng từ 4 năm qua. Tháp Vãng sanh sẽ được xây dựng tại Tự Viện Pháp Bảo và Thiền Lâm Pháp Bảo cũng đang tiến hành công trình những hạng mục mới. Thiền Lâm Pháp Bảo là nơi hoàn toàn thiên nhiên hùng vĩ, núi đồi xanh tươi bao la bát ngát. Trong Vườn Thiền có 4 câu thơ được khắc vào trong đá: Dấu Thiền lắng giữa hư không Tháp hành ? soi bóng Thiền Lâm đậm màu Ngày xưa mãi đến ngàn sau Tâm Không vật cũng nhuốm màu hư không (Thơ Sông Thu TBL)
05/07/2019(Xem: 3462)
Ở vào năm 2019 này, theo sự quan sát của tôi, tôi nhận thấy rằng TT Thích Nguyện Tạng cùng một số ít tăng sĩ khác (như TT Thích Phước Tấn trụ trì chùa Quang Minh/ Melbourne ) có thể được biểu dương là những người tiên phong, đại diện cho tăng sĩ trẻ trong thời buổi hiện đại này đã thông hiểu tận tường nội, ngoại minh của kinh điển và đã áp dụng thực triển vào trong Đời và Đạo .
05/07/2019(Xem: 4091)
Riêng tôi, nếu ví nhà chùa như bịnh viện tinh thần, tôi thấy cũng có lý. Vì rõ ràng quí sư đã chẳng nói đạo Phật là đạo cứu khổ ban vui. Do vậy đến chùa quan sát kỹ sẽ thấy, cũng không thiếu người góa chồng, góa vợ, li dị, hoặc chán ngán chuyện gia đình, hay đang cô đơn, cô độc...lân la đến chùa để giải tỏa nỗi lòng tìm niềm vui. Người thì rán nghe Pháp Phật chiêm nghiệm nghiệp quả mình tạo ra rồi tụng kinh sám hối, kẻ thì kể lể với bạn đạo để trút hết bầu tâm sự hay đôi khi trút cả đến những vị trụ trì nhờ “gỡ rối tơ lòng“. Tựu trung là tìm cách để giải tỏa nỗi khổ niềm đau.
05/07/2019(Xem: 4890)
Rồi ngày ấy cũng đến, cái ngày cả đạo tràng Chùa Linh Thứu mong đợi đã đến! Họ háo hức chờ đợi cũng phải vì cả một Phái Đoàn Hoằng Pháp Âu Mỹ gồm các Chư Tăng Ni từ 4 châu lục, đến Chùa Linh Thứu từ ngày 21 đến 23 tháng 6 năm 2019, chỉ để trao tặng cho đạo tràng dễ thương này 3 ngày an lạc. An lạc từ thân đến tâm, từ khẩu đến ý. Đúng quá đi chứ! Cả ba ngày chỉ để nghe Pháp, tụng kinh, lạy Phật, ngồi thiền, đi kinh hành... làm gì còn thì giờ để "tám" với ai nữa. Cứ xem như dứt sạch nợ trần!
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]