Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương VII: Lễ xuất gia

10/03/201105:29(Xem: 7559)
Chương VII: Lễ xuất gia

XỨ PHẬT HUYỀN BÍ
Nguyễn Hữu Kiệt dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

CHƯƠNG VII: LỄ XUẤT GIA

Dù đã trải qua rất nhiều thử thách và đạt được những thành quả nhất định trong tu tập, nhưng sư phụ vẫn nhiều lần từ chối không chịu làm lễ xuất gia để tôi chính thức trở thành một tu sĩ. Nguyên nhân của việc này chưa bao giờ được người nói ra, nhưng tôi đoán là người muốn cho tôi thanh toán xong chương trình ở bậc đại học.

Và rồi ngày tôi học xong đại học cũng đã đến. Kỳ thi tốt nghiệp cử nhân văn khoa của đại học Calcutta đã được định ngày, và tôi ráo riết chuẩn bị cho kỳ thi bằng cách ... cầu nguyện.

Vâng, đó là sự thật. Vì qua chuyện kể của tôi, hẳn bạn đọc cũng đã thấy rõ là tôi chẳng dành bao nhiêu thời gian cho việc học tập ở nhà trường. Còn hơn thế nữa, những chương trình học cùng với bài vở luyện tập chưa bao giờ lôi cuốn được sự chú ý của tôi theo bất cứ ý nghĩa nào. Tuy nhiên, tận đáy lòng tôi vẫn mong sẽ thỏa mãn được ước nguyện của cha tôi là hoàn tất chương trình đại học, và thêm vào đó, sư phụ Śrỵ Yukteswar cũng đã nói dứt khoát là người muốn tôi tốt nghiệp đại học như một tiền đề cho sự nghiệp hoằng hóa sau này. Giờ đây, giây phút quyết định đã gần kề. Tôi có thể nhận được mảnh bằng cử nhân văn khoa của trường đại học hay không, điều đó hoàn toàn tùy thuộc vào việc... lời cầu nguyện của tôi có được đáp ứng hay không, bởi vì tôi phải thú thật là tôi đã không học hành nghiêm túc theo như chương trình quy định.

Kết quả kỳ thi hoàn toàn bất ngờ đối với chính bản thân tôi. Tôi được điểm ưu môn triết học, và đủ điểm trung bình cho tất cả các môn khác. Như vậy, tôi chính thức được công nhận trở thành một Cử nhân văn chương.

Phải nói thật lòng là về sau tôi cũng rất ít khi dùng đến danh hiệu cử nhân theo sau tên gọi như hầu hết các ông cử đều làm. Tôi không xem đây là một kết quả học tập thật sự của mình, mà chỉ là một ân huệ nhiệm mầu để giúp tôi được dễ dàng hơn trên con đường hoằng pháp mà thôi.

Sau khi tôi nhận bằng cử nhân, cha tôi đề nghị tôi nhận một chức vụ trong công ty đường sắt, với hy vọng là tôi sẽ tiếp nối những công việc của người. Tôi cương quyết từ chối và trình bày việc này với sư phụ Śrỵ Yukteswar. Để kết luận, tôi nói:

– Bạch thầy, xin thầy hãy cho con được chính thức xuất gia.

Trước sự ngạc nhiên của tôi, sư phụ đáp lại thản nhiên như đã chuẩn bị từ trước:

– Được, nếu con đã quyết tâm, ngày mai chúng ta sẽ tổ chức lễ xuất gia cho con.

Như vậy là ước mơ của tôi đã sắp trở thành hiện thực. Sau khi đáp ứng tất cả những gì mà cha tôi yêu cầu, tôi nghĩ là người sẽ không còn lý do gì để từ chối việc xuất gia của tôi. Và sự ưng thuận của cha tôi quả thật đã được đưa ra ngay vào tối hôm đó. Cha tôi nói:

– Thế cũng tốt. Chính bản thân cha cũng mong muốn có được cuộc sống xuất gia, nhưng không phải mọi người đều có thể thực hiện được một ước mơ như thế. Cha hy vọng là con sẽ kiên trì theo đuổi con đường xuất thế. Đó là niềm tự hào rất lớn cho gia đình ta.

° ° °

Lễ xuất gia của tôi được cử hành hết sức đơn giản. Sư phụ đã lược bỏ hầu hết các lễ nghi phiền toái và chỉ giữ lại những gì là cốt yếu. Thêm vào đó, người cho tôi một đặc ân mà không phải người đệ tử nào cũng có được, đó là được quyền tự chọn lấy một pháp danh cho mình.

Tuy bất ngờ trước đề nghị này của sư phụ, tôi cũng suy nghĩ trong một lát rồi đáp:

– Bạch thầy, con sẽ lấy pháp danh là Yognanda.

Pháp danh này kết hợp hai ý nghĩa, với từ Yoga thể hiện pháp môn tu mà tôi đã chọn và từ nanda có ý nghĩa là niềm an lạc hạnh phúc có được nhờ việc thực hành tu tập.

Sư phụ rất hài lòng với pháp danh mà tôi đã chọn. Người trịnh trọng tuyên bố:

– Được. Kể từ nay con sẽ không còn là Mukunda Lal Ghosh, mà sẽ là tu sĩ Yognanda thuộc hệ phái Swmi.

Hệ phái Swmi khởi đầu từ đức tổ sư Shankara, là một hệ phái đã được truyền nối qua nhiều thế kỷ, với nhiều vị tăng sĩ đạo hạnh cao thâm và nêu cao tôn chỉ sống cuộc sống thanh bần, thực hành hạnh bố thí.

Rất nhiều tu sĩ thuộc hệ phái Swmi đã thể hiện cụ thể hạnh nguyện của mình qua việc tham gia các chương trình cứu tế hay giáo dục trong xã hội. Đôi khi, họ mở rộng hoạt động ra cả ở nước ngoài. Người tu sĩ thuộc hệ phái này luôn biết chia sẻ khó khăn với cộng đồng, thay vì chỉ mưu tìm sự thanh thản cho riêng bản thân mình. Tuy vậy, ngay trong những hoạt động xã hội bận rộn nhất, họ cũng không bao giờ xao lãng công phu tu tập hành trì.

Thật ra, hệ phái Swmi không phải là một dòng thiền. Những tu sĩ thuộc hệ phái này có thể chọn tu theo nhiều pháp môn khác nhau. Riêng sư phụ Śrỵ Yukteswar là một người đã chọn pháp môn thiền định và đạt đến chỗ uyên áo thâm sâu. Chính gương sáng của người đã khiến cho tôi quyết tâm chọn pháp môn thiền định để nối bước theo người. Và cũng phù hợp theo với hạnh nguyện của người, cuộc đời tôi về sau đã trở thành một chiếc cầu nối để pháp môn này được trực tiếp truyền từ Ấn Độ sang phương Tây.

° ° °

Sau khi tôi chính thức trở thành một tu sĩ, theo đuổi đời sống xuất gia, đáng buồn thay, dự báo đầu tiên của tôi lại là một tin chẳng tốt đẹp chút nào.

Một buổi sáng tinh mơ, khi tôi đang nhập định, tôi bỗng mơ hồ cảm thấy có điều gì đó không hay đang sắp xảy đến cho gia đình tôi. Quả thật, cho dù người ta đã chọn một đời sống xuất gia thì những quan hệ máu huyết ruột thịt cũng vẫn không thay đổi.

Lần đầu tiên tiên trong đời, tôi bất ngờ có thể định tâm để đọc được chính những dự cảm của mình. Tôi biết điều không hay sắp tới đó chính là việc anh Ananta của tôi sắp qua đời một cách bất ngờ, cho dù anh vẫn còn rất trẻ. Đây là một kinh nghiệm mà tôi đã nhiều lần chứng kiến ở sư phụ Śrỵ Yukteswar, nhưng bản thân tôi thì chưa từng được nếm trải.

Mấy hôm sau, tôi liền trở về quê cũ ở Gorakhpur để thăm anh Ananta đang ở đó. Ngay trong thời gian tôi ở thăm, anh bất ngờ ngã bệnh. Tôi đã tận tình săn sóc anh bằng tất cả khả năng của mình, nhưng tôi biết anh sẽ không sao qua khỏi.

Không muốn chứng kiến cảnh đau lòng này một cách vô ích, tôi nhanh chóng thu xếp một chuyến đi đường biển sang Miến Điện và Nhật Bản. Tôi đã lên tàu trong sự thất vọng của cha tôi vì người không sao hiểu được là tôi đã thấy trước mọi việc.

Tôi lưu lại hải cảng Kobé mấy ngày rồi lại theo đường biển trở về Ấn Độ. Thật là một chuyến đi không có mấy ích lợi, chỉ là vì tôi không sao chịu nổi việc bất lực đứng nhìn anh mình hấp hối.

Khi tôi ghé lại Thượng Hải trên đường về, ông bác sĩ đi theo tàu là Misra đã tháp tùng tôi cùng đi dạo trong thành phố. Chúng tôi mua một số quà tặng để mang về cho thân nhân trong nước. Bất chợt, tôi buông rơi một món quà đang cầm trên tay và kêu lên:

– Anh Ananta đã mất rồi!

Bác sĩ Misra nhìn tôi hoài nghi, nhưng ông cũng nói theo cách an ủi:

– Xin đại đức đừng quá bi quan. Còn phải đợi xem có tin tức gì không đã.

Khi chúng tôi về đến Calcutta, em trai út của tôi là Bishnu đã đợi tôi trên bến. Tôi và bác sĩ Misra cùng lên bờ một lượt. Và trước sự kinh ngạc đến ngẩn người của ông bác sĩ, em tôi thông báo việc anh Ananta đã mất, đúng vào ngày mà chúng tôi ghé lại Thượng Hải. Ông lắc đầu:

– Có lẽ tôi phải đề nghị thêm một năm học nữa về thần giao cách cảm cho các sinh viên y khoa ở trường đại học.

Cha tôi đón tôi về nhà với thái độ thân tình mà người rất hiếm khi bày tỏ. Ông ôm chầm lấy tôi, vỗ về trên lưng tôi và nói:

– Con đã về! Con đã về!

Bây giờ thì ông đã hiểu được lý do khiến tôi đột ngột bỏ ra đi. Tôi ở lại nhà mấy hôm để an ủi cha trong lúc người đang hết sức buồn đau vì cái chết của anh tôi.

Nhưng rồi không bao lâu sau đó, một tai họa khác lại giáng xuống cho gia đình tôi. Có điều, lần này thì tôi đã không đến nỗi hoàn toàn bất lực.

° ° °

Em gái tôi, Nalini, là một người gầy yếu từ thuở nhỏ. Thật ra, cho đến thời niên thiếu thì tôi cũng chẳng mập mạp gì hơn em. Chỉ đến khi gặp được sư phụ Śrỵ Yukteswar và được chữa khỏi chứng bệnh đau dạ dày kinh niên thì tôi mới bắt đầu trở nên mập mạnh, thậm chí là lực lưỡng nữa. Nhưng trường hợp của em gái tôi thì hoàn toàn khác. Nó không bị bệnh tật gì cả, chỉ là từ bé đến lớn chưa bao giờ thấy nó lên cân hay mập mạp ra chút nào, cho dù được ăn uống tẩm bổ bằng bất cứ thứ gì. Thân hình nó gầy ốm dưới mức trung bình, như một bộ xương cao lêu nghêu và khô đét.

Khi đến tuổi trưởng thành, gia đình thu xếp chuyện hôn nhân cho nó với một bác sĩ trẻ ở Calcutta. Anh chàng tên là Panchanon Bose, chưa từng được nhìn mặt cô dâu lần nào trước ngày đám cưới.[2]Tuy nhiên, anh chàng nhận được một món tiền hồi môn rất lớn để bù lại cho cô vợ... quá gầy.

Ngày đám cưới, tất cả gia đình và cả những người thân trong gia tộc đều quy tụ đông đảo. Tôi làm quen với người em rể mới bằng một nụ cười rất cởi mở đến nỗi anh chàng cho rằng tôi là người duy nhất để anh ta dám “trút bầu tâm sự” trong lúc này. Anh mon men đến gần tôi vào một lúc thuận tiện, rồi đưa mắt ra hiệu về phía Nalini, anh hỏi tôi:

– “Cái đó” là cái gì vậy?

Tôi trả lời anh chàng một cách hóm hỉnh:

– À, “cái đó” là một bộ xương để cho ông khám nghiệm đấy, thưa bác sĩ!

Cả hai chúng tôi đều bật cười vang sau lời đùa cợt ấy, và kể từ đó Bose xem tôi không chỉ là anh rể mà còn là người bạn thân để anh ta có thể kể lể tâm tình. Nhiều lần, anh chàng nói với tôi:

– Anh ạ, vợ em quả là một trường hợp lạ thường. Em đã thử đủ mọi phương cách, mọi thứ thuốc bổ dưỡng... nhưng hầu như là không có lấy một chút tác dụng nào cả.

Và tôi biết điều đó đã phần nào làm cản trở hạnh phúc trong cuộc sống hôn nhân của vợ chồng em tôi.

Một ngày kia, tôi đến thăm Bose và định ra về mà không cho em gái tôi biết, nhưng khi tôi vừa ra đến cửa thì nó đã từ trên lầu gọi xuống:

– Anh Mukunda, em có chuyện muốn nói với anh.

Tôi liền quay trở lại. Hóa ra, “chuyện muốn nói” lại chính là sự gầy gò kinh niên bất trị của nó. Nalini nói với tôi qua làn nước mắt:

– Nếu anh đã nhờ vào con đường tu tập mà có được sức khỏe như hôm nay, tại sao anh không giúp em với? Em thật là đau khổ khi phải mang thân hình gầy ốm xấu xí này suốt cả đời. Em không còn tin tưởng chút nào vào thuốc men và sự tẩm bổ nữa.

Vừa nói, Nalini vừa mở nắp chai thuốc bổ và trút cả vào giỏ rác nơi góc phòng.

Tôi im lặng cảm thông với đứa em tội nghiệp của mình. Một lát, tôi bảo nó:

– Anh chỉ sợ là em không có đủ đức tin.

– Không, em sẽ làm được. Chỉ cần anh hướng dẫn cho em phải làm những gì.

Tôi lặng lẽ ra về. Hai hôm sau, tôi đến thăm vợ chồng Nalini và mang đến cho nó một giỏ rau tươi với mấy quả cà chua thật lớn. Chỉ ngồi chơi một lát rồi ra về, tôi thậm chí không gặp Nalini vì lúc ấy em tôi đang ở trên lầu.

Hai tháng sau, Bose gặp tôi trên đường phố và mừng rỡ kéo tôi lại, thông báo với một vẻ rất bí mật:

– Em chưa dám nói cho ai biết, nhưng quả thật vợ em đã lên được 2 kí-lô trong vòng 2 tháng qua. Thật kỳ lạ, từ hôm anh ghé chơi đến nay nó từ chối dứt khoát không dùng thịt, cá, trứng... chỉ toàn ăn cơm với các loại rau cải... thế mà lại lên cân mới quái chứ!

Tôi không tỏ vẻ gì ngạc nhiên, chỉ đáp lại:

– Thế à!

Bose không hề biết rằng việc em gái tôi ăn chay chính là đã hiểu được lời chỉ dạy của tôi. Chính tôi cũng đã cầu nguyện cho sức khỏe và đức tin của nó. Ngoài việc nó lên cân, tôi tin rằng nó còn đạt được nhiều điều khác nữa trong tinh thần.

Nửa năm sau thì Nalini đã có tầm vóc của một phụ nữ bình thường. Sức khỏe cũng rất khả quan, không còn những lần ốm đau vặt vãnh như trước đây. Nalini vẫn tiếp tục ăn chay.

Và vào thời điểm ấy thì tôi có việc phải sang Nhật Bản ít lâu. Khi trở về, tôi được biết là Nalini đã ngã bệnh trong khi tôi đi vắng. Tôi vội vã đến thăm và rất ngạc nhiên khi thấy chưa bao lâu mà nó đã chỉ còn da bọc xương, nằm thoi thóp mê man trên giường bệnh. Bose mừng rỡ khi thấy tôi đến:

– Anh đây rồi! Trong những ngày còn tỉnh táo, Nalini luôn miệng gọi tên anh.

Hóa ra là Nalini mê man đã hai hôm nay rồi. Bose và các bạn bác sĩ khác bạn anh đã xác định là Nalini mắc chứng thương hàn, kèm theo bệnh kiết. Nhưng thuốc men của họ dường như đều vô hiệu.

Từ nhà em gái trở về, tôi âm thầm cầu nguyện cho nó. Ngày hôm sau, trong lúc nhập định tôi dự cảm được là em tôi sẽ qua khỏi căn bệnh này nhờ vào sự thành tâm chú nguyện của tôi, nhưng với định lực của mình tôi vẫn không thể cứu thoát nó khỏi một sự thương tổn nặng nề nhất định nào đó.

Một tuần sau, trước sự kinh ngạc của tất cả các bác sĩ người Anh và người Ấn tại Calcutta, em gái tôi dần dần bình phục như một phép lạ. Tuy nhiên, điều họ không ngờ được là đôi chân em đã không còn cử động được nữa. Sau khi xác định chúng đã bị liệt, họ tuyên bố là Nalini xem như tàn tật suốt đời.

Tôi tìm gặp sư phụ Śrỵ Yukteswar với tâm trạng tuyệt vọng trước sự mất mát quá lớn lao cho cuộc đời của em gái tôi. Sư phụ tỏ vẻ hết sức cảm thông và bảo tôi:

– Nalini là một đứa con gái ngoan và có đức tin. Con không cần phải lo cho nó. Đến cuối tháng này thì đôi chân của em con sẽ bắt đầu cử động được thôi.

Tôi vui mừng vô hạn vì biết chắc lời nói của sư phụ không hề sai lệch bao giờ. Tôi lễ bái tạ ơn sư phụ về lời chúc phúc tốt lành đó. Khi tôi đã bước ra đến cửa, sư phụ gọi tôi trở vào và nói:

– Ta cần nói thêm điều này nữa. Các bác sĩ sẽ nói với em con là nó không có khả năng sinh sản. Nhưng không cần thiết phải để cho nó đau khổ vì việc đó. Con hãy nói cho nó biết là trong năm tới nó sẽ sinh một đứa con gái, và ba năm sau là một đứa con gái khác nữa.

° ° °

Trường hợp của em gái tôi đã trở thành một thách thức chưa từng có và đập tan hoàn toàn sự hoài nghi của các bác sĩ Tây y ở Calcutta. Bởi vì đúng như dự báo của sư phụ Śrỵ Yukteswar, đôi chân của em tôi đã cử động bình thường trở lại. Hơn thế nữa, kết luận về chứng vô sinh của Nalini đã hoàn toàn sai lầm khi em gái tôi lần lượt hạ sinh hai bé gái đúng như lời sư phụ Śrỵ Yukteswar đã tiên đoán.

Để đáp lại những phước lành ấy, vợ chồng Nalini trở thành một trong những cặp vợ chồng sùng đạo nhất ở Calcutta. Hơn thế nữa, Nalini đã phát nguyện ăn chay trường suốt cuộc đời mình. Về sau, một trong hai đứa con gái của em tôi đã xuất gia trở thành nữ tu sĩ.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/01/2018(Xem: 4431)
40 Năm Ở Mỹ, sách của TT Thích Từ Lực
11/01/2018(Xem: 5082)
Vào những năm đầu của thập niên 2000, khi cây bút đang còn sung sức, tôi viết rất nhiều bài về danh lam thắng cảnh trên quê hương Nha Trang của mình để giới thiệu trên các báo và tạp chí khắp đất nước. Trong số đó, hiển nhiên là có bài viết về ngôi chùa đã lưu nhiều hình ảnh, dấu ấn kỷ niệm vào ký ức tuổi thơ của tôi với tên gọi thân quen mộc mạc: “Chùa Núi Sinh Trung”.
08/01/2018(Xem: 11173)
Hồi còn tại thế xưa kia Trên đường giáo hóa Phật đi qua làng Ngài đi cùng ông A Nan Khai tâm gieo ánh đạo vàng giúp dân. Đang đi ngài bỗng dừng chân Bước quanh lối khác có phần xa thêm Ông A Nan rất ngạc nhiên Vội lên tiếng hỏi. Phật liền giảng ra: "Này A Nan phía trước ta Có quân giặc cướp thật là hiểm nguy Sau ta ba kẻ đang đi Gặp quân giặc đó khó bề thoát qua!"
08/01/2018(Xem: 9353)
Ở bên Ấn Độ thuở xưa Nơi thành Xá Vệ, buổi trưa một ngày Gia đình kia thật duyên may Phật thương hóa độ, dừng ngay tại nhà, Tiếc thay chồng vợ tỏ ra Tham lam, độc ác, xấu xa, hung tàn. Hóa thành một vị đạo nhân Phật đi khất thực dừng chân trước thềm Ôm bình bát, đứng trang nghiêm, Anh chồng đi vắng, vợ liền nhảy ra Tay xua đuổi, miệng hét la
07/01/2018(Xem: 7745)
Sau mỗi lần có dịp viếng thăm các chứng tích như tượng đài, lăng mộ, viện bảo tàng, nhà lưu niệm, ..., của những nhân vật mà cuộc đời phần nào liên quan đến đời sống vật chất hay tinh thần, sự thịnh suy ,... của một nhóm người, một dân tộc, một vùng, một quốc gia,..., tôi ra về lòng những bâng khuâng với hai câu : Những người muôn năm cũ Hồn ở đâu bây giờ ? trong bài thơ Ông Đồ của nhà thơ Vũ Đình Liên.
21/12/2017(Xem: 3767)
Anh sinh ra và lớn lên ở miền gió cát khô nóng Phan Rang. Là một Phật tử thuần thành, lại được phước báu khi có đến hai người con trai xuất gia, nên nhân duyên đưa đẩy đã trở thành đạo hữu của tôi qua nhiều lần hội ngộ lạ lùng ở các thiền viện thuộc dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử. Kết tình đạo hữu với nhau đã gần mười năm rồi, mỗi lần gặp mặt, tôi và anh đều tay bắt mặt mừng, trò chuyện thân mật, nhưng người huyên thiên lúc đàm đạo là anh, còn tôi thì cứ chỉ biết gật gù, mỉm cười, họa hoằn lắm mới buông một đôi câu phụ họa. Anh quý mến tôi ở điểm đó.
15/12/2017(Xem: 6286)
Hương Lúa Chùa Quê" Bản Tình Ca Quê Hương của nhị vị Hòa Thượng Thích Bảo Lạc và Thích Như Điển. Sau khi đọc tác phẩm “Hương Lúa Chùa Quê” chúng con không dám mong ước giới thiệu sự nghiệp văn học, văn hóa cả đạo lẫn đời của nhị vị Hòa Thượng. Vì công trình tạo dựng sự nghiệp của các bậc xuất sĩ không nằm trong “nguồn văn chương sáng tác”. Vì xuyên qua mấy chục năm hành đạo và giúp đời, nhị vị đã xây dựng nhiều cơ sở Phật giáo đồ sộ trên nhiều quốc độ khác nhau như: chùa Pháp Bảo tại nước Úc; chùa Viên Giác và Tu viện Viên Đức tại nước Đức. Nhị vị cũng đã mang ánh Đạo vàng đến khắp muôn nơi, soi sáng cho bước chân “người cùng tử” được trở về dưới mái nhà xưa, để thấy lại “bóng hình chân nguyên”; dẫn đường cho những người chưa thể “tự mình thắp đuốc lên mà đi” được tìm lại “bản lai diện mục”. Đó mới gọi là “sự nghiệp” của bậc xuât sĩ. Điều nầy đã có lịch sử ghi nhận từ mạch nguồn công đức biểu hiện và lưu truyền.
15/12/2017(Xem: 86946)
Trải hơn 25 thế kỷ, Chánh Pháp của Phật vẫn được tuyên dương và lưu truyền bởi hàng đệ tử xuất gia lẫn tại gia, đem lại giải thoát và giác ngộ cho những ai học hỏi và thực hành đúng đắn. Chánh Pháp ấy là thuốc hay, nhưng bệnh mà không uống thì chẳng phải là lỗi của thuốc. Trong kinh Di Giáo, đức Phật cũng ân cần huấn thị lần chót bằng những lời cảm động như sau: “Thể hiện lòng đại bi, Như Lai đã nói Chánh Pháp ích lợi một cách cứu cánh. Các thầy chỉ còn nỗ lực mà thực hành… Hãy tự cố gắng một cách thường trực, tinh tiến mà tu tập, đừng để đời mình trôi qua một cách vô ích, và sau này sẽ phải lo sợ hối hận.” Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người. Ước mong giáo pháp của Phật sẽ được lưu chuyển qua những trang báo nhỏ này, mỗi người sẽ tùy theo căn tánh và nhân duyên mà tiếp nhận hương vị.
29/11/2017(Xem: 6610)
Trong loạt bài Kể Chuyện Đường Xa lần này, người viết đặt thêm tên cho mục này Vòng Quanh Thế Giới, để có cùng tên với loạt phóng sự sẽ đưa lên tvtsonline.com.au với nhạc hiệu mở đầu của bài “Vòng quanh thế giới” người viết sáng tác gần bốn thập niên trước đây. Từ năm 1990, chúng tôi đã bắt đầu viết bút ký với chuyến đi Bangkok (Thái Lan) và loạt bài cuối cùng là chuyến du lịch Âu Châu vào năm 2015.
27/11/2017(Xem: 4826)
Nếu chấp nhận thuyết nhân duyên của Đạo Phật thì có thể dễ dàng, giải thích cho mọi tình huống và mọi sự việc xảy ra trong cuộc đời nầy. Nhân duyên hay duyên sanh cũng tương tự với nhau. Đó là: „Cái nầy có cho nên cái kia có; cái nầy sanh cho nên cái kia sanh. Cái nầy diệt, cho nên cái kia cũng diệt theo“. Không ai trong chúng ta có thể biết trước được việc gì sẽ xảy đến cho mình về sau nầy cả; dầu cho chúng ta có cố gắng làm mọi việc tốt đẹp trong hiện tại; nhưng dư báo trong quá khứ, ai biết được thiện, ác còn lại bao nhiêu mà lường được. Chỉ khi nào nắp quan tài đậy lại trong kiếp nầy, thì lúc ấy ta mới biết được cái quả trong hiện tại là cái nhân như thế nào mà trong quá khứ của chúng ta đã gây ra và chính cái quả của ngày hôm nay sẽ là cái nhân cho ngày sau nữa.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]