Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

26. La-hầu-la xuất gia

09/03/201108:46(Xem: 6327)
26. La-hầu-la xuất gia

TRUYỆN TÍCH VU LAN PHẬT GIÁO
Minh Châu sưu tầm, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

La-hầu-la xuất gia

Lúc đức Phật còn tại thế, một hôm Phật bảo Ngài Mục-kiền-liên rằng: “Ông hãy về thành Ca-tỳ-la-vệ kính thăm phụ vương, thúc phụ và bà di mẫu của ta, ủy dụ mẹ của La-hầu-la hãy cắt tình ân ái cho La-hầu-la xuất gia làm sa-di. Tình ân ái giữa mẹ con thương nhau chỉ trong giây lát, chết rồi bị đọa vào địa ngục, không bao giờ được biết nhau. Nếu La-hầu-la xuất gia chứng đạo, thời sẽ trở lại độ cho mẹ, trọn đời ra khỏi luân hồi sanh tử như ta ngày nay vậy.”

Ngài Mục-kiền-liên vâng lời đến thành Ca-tỳ-la-vệ trình bày ý định của đức Phật. Bà Da-du Đà-la nghe tin có sứ giả của đức Phật đến khuyên La-hầu-la xuất gia, liền đem con lên trên một lầu cao và đóng bít tất cả ngõ vào. Ngài Mục-kiền-liên liền dùng thần thông vào tiếp kiến, bà Gia-du-đà-la bất đắc dĩ phải làm lễ kính thăm đức Thế Tôn và hỏi sứ mệnh của Ngài đến đây có việc gì. Ngài Mục-kiền-liên nói rằng: “Thái tử La-hầu-la nay đã chín tuổi, nên cho xuất gia tu học Thánh đạo để tự giải thoát và giải thoát cho mọi người. Chính bổn ý của đức Phật là như vậy.”

Bà Da-du Đà-la đáp: “Đức Thích Ca Như Lai khi còn làm thái tử đã cưới tôi làm vợ, tôi phụng thờ thái tử như phụng thờ một vị thiên thần. Chưa được ba năm, thái tử vượt thành xuất gia tu đạo, lòng tôi đau khổ biết bao. Tự nghĩ sau khi thái tử thành đạo, chắc có thể cùng nhau tương kiến. Nhưng từ khi ngài thành đạo, hoàn toàn quên hết tình xưa nghĩa cũ đối với những người thân, lạt lẽo hơn người dưng nước lã, khiến tôi phải sống cô độc khốn cùng. Ngày nay ngài lại muốn chiếm đoạt cả con tôi, thời còn gì tàn khốc hơn nữa. Thái tử thành đạo tự nói là từ bi, nhưng nay làm cách biệt mẹ con tôi thì từ bi của ngài ở chỗ nào? Mong ngài hãy trở về thưa lên đức Thế Tôn nỗi lòng của tôi như thế.”

Đức Mục-kiền-liên liền từ tạ, đến kể lại câu chuyện cho vua Tịnh Phạn biết. Vua liền bảo bà Ma-ha Ba-xà-ba-đề đến khuyên nhủ nàng Da-du Đà-la. Bà đến khuyên ba lần, nàng nhất quyết không nghe và thưa rằng: “Ngày tôi còn ở nhà, vua của tám nước tranh nhau đến cầu hôn tôi, cha mẹ tôi đều từ chối, để dành riêng tôi cho thái tử là bậc xuất chúng hơn người. Nếu thái tử không muốn ở đời, thì ân cần cầu tôi làm gì? Phàm ở đời, lập gia đình thành vợ thành chồng, đều mong có con cháu nối giòng, đó là lẽ chính ở đời. Thái tử đã đành tâm đi rồi, nay lại muốn đem La-hầu-la đi, cho tuyệt hẳn giòng dõi truyền nối thì còn có nghĩa lý gì nữa.”

Bà Ma-ha Ba-xà-ba-đề liền im lặng không biết nói gì. Đức Phật hiểu được tâm trạng câu chấp và buồn khổ của nàng Da-du Đà-la, liền dùng vị hóa nhơn đến nói rằng: “Nàng còn nhớ thệ nguyện của nàng không? Thời ta còn làm vị Bồ Tát lấy 500 đồng tiền mua 5 bông sen của nàng để dâng cúng đức Phật Định Quang, nàng còn gửi hai bông sen nhờ ta dâng cúng đức Phật, và cầu xin đời đời kiếp kiếp làm vợ của ta. Ta có nói với nàng: Ta là vị Bồ Tát, có nguyện bố thí tất cả, nếu nàng muốn làm vợ ta thì nếu ta có bố thí cả quốc thành thê tử cho đến tự thân, nàng phải hoan hỷ. Nàng đã hứa cùng ta rồi, sao nay nàng lại thương tiếc La-hầu-la không muốn rời bỏ.”

Nàng Da-du Đà-la nghe nói liền biết sự lỗi lầm của mình, làm lễ sám hối với ngài Mục-kiền-liên, ân cần giao phó cho ngài, và khóc lóc từ biệt con. La-hầu-la biết mẹ sầu muộn liền khuyên giải mẹ và từ tạ mà đi. Vua Tịnh Phạn liền bảo các nhà hào tộc, mỗi nhà cử cho một người con trai cùng xuất gia với La-hầu-la.

La-hầu-la cùng với 50 vị công tử đến đảnh lễ đức Phật. Đức Phật sai ngài A Nan cắt tóc cho La-hầu-la và 50 vị công tử, cho xuất gia; bảo ngài Xá-lợi-phất làm Hòa thượng, Ngài Mục-kiền-liên làm A-xà-lê truyền trao 10 giới sa-di. đức Phật giảng kinh Phiến-đà-la nói về tội báo các đời trước cho các vị sa-di nghe.

La-hầu-la nghe kinh, trong lòng lấy làm ưu sầu, bạch Phật rằng: Bậc Hòa thượng đại trí đức, thọ lãnh các món cúng dường tối thượng, kẻ tiểu nhi ngu mà không có đức, ăn đồ tín thí của người, đời sau chịu khổ như Phiến-đà-la. Vậy nên chúng con rất lo lắng, nguyện Phật cho chúng con bỏ đạo về nhà để khỏi các tội lỗi.”

Đức Phật dạy: “Như có hai người bị đói, gặp được người chủ đãi bữa cơm ngon, tham ăn quá no. Một người có trí, liền uống thuốc xổ, gìn giữ nghỉ ngơi nên giữ được mạng sống. Một người vô trí sát sanh tế lễ để cầu được sống, không ngờ đồ ăn chất chứa không tiêu nên phải chết, đọa vào cõi địa ngục. Người sợ tội mà xin bỏ đạo về nhà thật là kẻ vô trí. Các con đã có nhơn lành được gặp ta thì nên uống thuốc cứu khổ, thời khỏi phải chết”.

La-hầu-la nghe lời Phật dạy, hiểu rõ chơn nghĩa của sự tu hành, đảnh lễ chân thật, vâng theo lời giáo huấn của đức Thế Tôn.

La-hầu-la chưa chứng đạo, nên tâm tánh còn thô tháo chưa được thuần thục, lời nói ít thành tín.

Một hôm, Phật bảo La-hầu-la: “Ngươi hãy về ở tại tịnh xá Hiền-đề, giữ lời nhiếp ý, siêng tu kinh giới.”

La-hầu-la vâng theo lời Phật dạy, về ở tịnh xá Hiền-đề 90 ngày, tàm quý tự hối, ngày đêm không dừng nghỉ. Đức Phật đến thăm, La-hầu-la hoan hỷ đảnh lễ, sửa soạn chỗ ngồi thỉnh Phật an tọa, nhiếp tâm đứng hầu một bên Phật. Phật bảo La-hầu-la:

– Ngươi hãy bưng chậu nước đến đây, rửa chân cho ta.

La-hầu-la vâng lời rửa chân đức Phật. Khi rửa xong đức Phật bảo La-hầu-la:

– Ngươi có thấy nước rửa chân trong chậu kia không?

– Bạch Thế Tôn, con thấy.

– Nước ấy có thể dùng để ăn uống súc miệng được không?

– Bạch Thế Tôn, không thể được. Nước ấy trước kia trong sạch, nay vì rửa chân trở thành nhớp đục nên không thể dùng.

Phật dạy:

– Ngươi cũng như vậy, là con ta, là cháu vua Tịnh Phạn, bỏ sự vui sướng ở đời, làm vị sa-môn. Nếu không tinh tấn, nhiếp thân giữ miệng thì sẽ bị ba món độc là tham sân si làm nhơ nhớp tâm ý, cũng như nước kia không thể dùng được.

Phật lại bảo La-hầu-la:

– Hãy đổ chậu nước kia đi.

La-hầu-la liền đổ nước trong chậu.

Phật dạy:

– Chậu kia không còn nước nhớp nữa, vậy có thể đựng đồ ăn uống được không?

– Bạch Thế Tôn, không thể dùng được, vì đã mang cái tên chậu đựng nước rửa và đã từng chứa nước không sạch.

Phật dạy La-hầu-la:

– Ngươi cũng như vậy, tuy làm vị sa-môn, miệng không nói thành tín, tâm tánh lại cang cường, chẳng niệm tinh tấn, thường bị tiếng đồn không tốt. Thật cũng như cái chậu rửa kia không thể đựng đồ ăn được.

Đức Phật lại lấy ngón chân hất cái chậu rửa, khiến chạy lăn tròn, nghiêng qua nghiêng lại vài lần rồi mới dừng lại. Phật lại hỏi La-hầu-la:

– Ngươi có tiếc cái chậu này bị bể không?

– Bạch Thế Tôn, cái chậu để rửa chân là vật không quý giá gì. Trong ý tuy cũng có tiếc đôi chút, nhưng không đến nỗi thiết tha lắm.

Phật bảo La-hầu-la:

– Ngươi cũng như vậy, tuy là sa-môn, nhưng nếu không nhiếp thân và miệng, nói lời thô ác làm hại nhiều người, thời trong chúng không ai thương, người tri thức không ai tiếc, thân chết bị luân chuyển trong ba đường dữ, sống chết vô lượng, các vị Hiền Thánh không ai thương tiếc, cũng như ngươi nói không tiếc cái chậu vậy.

La-hầu-la nghe lời Phật dạy lấy làm hổ thẹn và sám hối tất cả lỗi lầm đã phạm.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/09/2010(Xem: 3497)
Tha phương sinh sống xứ người, tuy thâm tâm lúc nào cũng hướng về quê hương mến yêu, thế nhưng phải chờ đợi đến hơn hai mươi năm trời, sau bao ngày khắc khoải suy tư Thanh mới đột ngột quyết định về nước nghỉ hè hai tháng. Chàng về Saigon viếng thăm họ hàng vài ngày, rồi lang thang du ngoạn khắp các vùng biển từ Sầm Sơn đến Vũng Tàu, sau cùng quay lại Nha Trang, chiều chiều thơ thẩn đi dài dài trên bãi, mắt lơ láo nhìn biển khơi xa xăm với nỗi buồn vời vợi.
02/09/2010(Xem: 3688)
“Khác hơn thường lệ, đôi bạn thân Hiển và Phước, đối ẩm trong lặng lẽ, chẳng ai chịu mở lời. Hiển nâng chung trà hớp từng ngụm, rồi dường như đang bâng khuâng thả hồn theo những chiếc lá phong đỏ thẩm từng chiếc, từng chiếc rụt rè buông rời cành theo làn gió chiều mơn man. Còn Phước thì cầm chung trà, đi tới lui đăm chiêu suy nghĩ, mấy lần định lên tiếng mà cố đè nén chưa chịu hở môi.
02/09/2010(Xem: 3559)
Nghĩa háo hức theo mẹ về Việt Nam thăm viếng quê hương. Sau mấy ngày vui nhộn làm sống lại những kỹ niệm ấu thơ tại Thủ Đức với bà con họ nội xa gần, chàng theo mẹ về quê ngoại, tạm trú tại nhà cậu Út ở thành phố Phan Rang, Ninh Thuận. Vì thuở nhỏ chàng không có cơ hội liên lạc với họ ngoại, nên dù được cậu tiếp đón rình rang, nhưng chàng muốn thân thiết với hai đứa em cô cậu thật khó.
01/09/2010(Xem: 5522)
Dù dòng thời gian đã xoá nhòa những hình ảnh quý gíá xa xưa, dù dấu chân của các Ngài đã rêu phong phủ kín. Nhưng những dấu chân ấy đã đi vào lịch sử nhân gian, dù tiếng nói các Ngài đã hòa vào không gian tĩnh lặng. Nhưng đâu đây vẫn còn vang vọng pháp âm của các Ngài, làm chấn động tâm tư huyết mạch của bao người con Phật. Trong quyển “Những Vị Phật ở Miền Tây Nam Việt Nam” này. Chúng tôi sưu tầm, nghiên cứu và ghi chép trung thực theo lời thuật của các vị Trưởng Lão uy tín; hay các vị trí thức trung hậu; hoặc trích trong các tài liệu giá tri được mọi người tin tưởng.
28/08/2010(Xem: 61364)
Quyển 6 • Buổi Pháp Thoại Trên Đỉnh Cao Linh Thứu (Gijjhakūṭa) • Ruộng Phước • Tuệ Phân Tích Của Tôn Giả Sāriputta • MÙA AN CƯ THỨ MƯỜI CHÍN (Năm 569 trước TL)- Mỹ Nhân Giá Mấy Xu? • Chuyện Cô Sirimā • Móc Cho Con Mắt Đẹp • Ngạ Quỷ Mình Trăn • Cùng Một Nguyên Lý • “Hớt” Phước Của Người Nghèo! • Ghi chú đặc biệt về hạ thứ 19: • MÙA AN CƯ THỨ HAI MƯƠI (Năm 568 trước TL)-Phước Cho Quả Hiện Tại • Bảy Thánh Sản • Chuyện Kể Về Cõi Trời • Hóa Độ Gia Đình Thợ Săn • Nhân Duyên Quá Khứ
28/08/2010(Xem: 4360)
Tết Mậu Thân 1968, một cái Tết mà Việt Cộng tràn về quá bất ngờ, tôi không thể tin rằng đó là sự thật. Mồng Một Tết vẫn ăn Tết sắm sửa bình thường. Nhà tôi ở lầu 2 trường Đồng Khánh vì tôi làm Giám Học tại trường này, bên hông là Tòa Hành Chánh và Lao xá Thừa Thiên - nơi giam giữ nhiều tù binh Việt Cộng. Cả ngày vẫn tấp nập bà con tới lui thắm viếng, chiều lại còn có con của các nhân viên trong trường đến thăm chuyện trò hàn huyên vui như ngày hội. Tối đến cả nhà còn bàn nhau nên đi ngủ sớm để ngày mai xuống phi trường đón gia đình người anh chồng về Huế ăn Tết.
28/08/2010(Xem: 58098)
Sau khi sinh hoạt của hội chúng đã tạm thời đi vào quy củ, nền nếp; đức Phật thấy thời tiết có nắng nhẹ, trời không lạnh lắm, thuận lợi cho việc du hành nên quyết định rời Gayāsīsa, đến kinh đô Rājagaha, đường xa chừng sáu do-tuần. Thấy đoàn sa-môn quá đông, khó khăn cho việc khất thực, đức Phật gợi ý với ba anh em Kassapa cho chúng đệ tử phân thành từng nhóm,
19/08/2010(Xem: 8600)
Tại Keelung, Đài Loan có một cửa hàng với cái tên là “Ngộ Duyên Hào”. Ông chủ Lâm vốn là một người rất tử tế, xung quanh khu vực ông sống có rất nhiều những cư dân đánh cá hay kiếm sống quanh đó.
04/08/2010(Xem: 4482)
Tác-giả Thiện Xuân Malkhanova là một con người thật đặc-biệt. Còn nhớ năm 2000 khi chị Trương Anh Thụy và tôi đi sang họp Đại-hội Văn-bút Thế-giới ở Mạc-tư-khoa, chúng tôi đã để ý đến chuyện đi đường, gặp con sâu róm ở dưới đất, chị đã ân cần lấy một cái lá nâng nó lên rồi đặt nó lên một cành cây gần đó. Một con người từ-bi đến với cả cỏ cây, đất đá! Chị bảo đó là điều chị đã học được từ đạo Phật.
04/08/2010(Xem: 4010)
Không biết từ lúc nào, mà ngôi tịnh thất vô danh thấp thoáng dưới tàn cây huỳnh đàn rậm lá trên đỉnh núi Ông cheo leo mây mù đong đưa bao phủ quanh năm, đã được dân quê dưới chân núi ưu ái gọi là am Mây Ngàn thay thế cho cái tên “chòi đạo Ân” mà họ hùa nhau ám chỉ túp lều lá của sư Từ Ân ngày trước. Thuở mới đăng sơn cắm dùi khẩn đất làm chốn ẩn tu, sư lủi thủi một mình chẳng có móng đệ tử lăng xăng đón đưa phục dịch, sư tự vác cuốc, quẩy gánh... lặng lẽ lên tận đỉnh, khai phá được một khoảnh đất nhỏ làm rẫy. Sư bắt đầu trồng các loại rau đậu, khoai, bắp, cà dưa... để sớm gặt hái hoa lợi,
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]