Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

75. Vũ nữ xin xuất gia

04/03/201103:31(Xem: 6565)
75. Vũ nữ xin xuất gia

MỘT TRĂM BÀI KINH PHẬT
Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải

PHẨM THỨ TÁM: CÁC VỊ TỲ-KHEO NI

VŨ NỮ XIN XUẤT GIA

Lúc ấy, Phật ở gần thành Vương-xá, trong tinh xá Trúc Lâm. Bấy giờ, các vị trưởng giả trong thành tụ tập nhau lại tổ chức một lễ hội vui chơi rất linh đình, có ca múa vũ nhạc giúp vui nhộn nhịp lắm.

Có hai vợ chồng kia vốn là vũ sư từ phương nam đến, cũng dự hội vui này, mang theo một cô con gái tên là Thanh Liên Hoa, dáng vẻ xinh đẹp uyển chuyển, nhan sắc hơn người, lại thêm thông minh trí tuệ, ứng đối khéo léo.

Cô Thanh Liên Hoa ấy chẳng những giỏi nghề ca múa không thôi, cô còn nhiều tài nghệ khéo léo khác, lại thông bác hết thảy các kinh luận của các luận sư đương thời. Vì vậy, lòng cô cao ngạo lắm. Cô cho rằng thế gian này không có ai tài hoa, khéo léo và xinh đẹp như cô.

Sau khi trình bày những vũ điệu rất khéo léo, tài tình, làm lôi cuốn hết thảy những người đến xem hội, cô Thanh Liên Hoa mới lên tiếng hỏi một cách ngạo mạn rằng: “Xin hỏi quý vị, ở thành Vương-xá này có ai có thể xem là tài hoa như tôi đây chăng? Có ai có thể khéo biện giải kinh luận hơn tôi chăng?”

Trong số người xem hội, có người nói rằng: “Có đức Phật Thế Tôn ở tinh xá Trúc Lâm có thể giảng giải những chỗ nghi cho cô. Cô nên đến đó.”

Vũ nữ nghe vậy rồi, liền cùng với nhiều người nữa đi đến chỗ Phật. Lòng đầy cao ngạo, cô đến tinh xá rồi, từ bên ngoài vừa ca múa ưỡn ẹo mà đi vào chỗ Phật, không có chút tôn kính nào.

Đức Thế Tôn thấy biết thấu trong tâm cô, liền dùng thần lực khiến thân hình cô chỉ trong phút chốc đã giống như cụ bà trăm tuổi: da nhăn, tóc bạc, răng rụng, má hóp, run rẩy lom khom mà đi.

Cô vũ nữ tự thấy thân hình thay đổi dị thường như vậy, liền tự hiểu ngay là do thần lực của Phật hóa hiện. Biết vậy rồi, cô đối trước Phật sinh lòng hổ thẹn vô cùng, bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Nay con đến trước đức Thế Tôn mà tâm sinh kiêu mạn, buông lung phóng túng thật chẳng phải đạo. Xin đức Thế Tôn từ bi tha thứ.”

Phật biết trong tâm cô đã được điều phục, liền dùng thần thông khiến cho cô trở lại nguyên hình như trước.

Khi ấy, đại chúng tỳ-kheo nhìn thấy vũ nữ ấy chỉ trong thoáng chốc mà thoạt trẻ, thoạt già, hình dung chẳng có gì là cố định, liền ngộ sâu vào lý vô thường, thảy đều sinh tâm nhàm chán cuộc sinh tử, tâm ý khai mở, có người đắc quả Tu-đà-hoàn, có người đắc quả Tư-đà-hàm, có người đắc quả A-na-hàm, có người đắc quả A-La-hán, lại có nhiều người phát tâm cầu quả Phật Bích-chi, cũng có người phát tâm cầu quả vô thượng Bồ-đề.

Bấy giờ cô vũ nữ sinh lòng tín kính, lạy Phật xin xuất gia nhập đạo. Phật nói: “Lành thay đó, tỳ-kheo ni!” Tức thì, tóc trên đầu tự nhiên rụng sạch, áo cà-sa hiện ra nơi thân, thành một vị tỳ-kheo ni oai nghi đầy đủ. Chuyên cần tu tập, chẳng bao lâu đắc quả A-La-hán, đủ Ba trí sáng, Sáu phép thần thông, Tám môn giải thoát, khắp cõi trời người ai gặp cũng đều kính trọng, ngưỡng mộ.

Chư tỳ-kheo thấy việc như vậy liền thưa hỏi rằng: “Bạch Thế Tôn! Nhờ đâu Phật có thể hóa độ cho một kẻ phóng túng kiêu căng như thế, chỉ trong chốc lát đã thành tâm quy phục, lại xuất gia chứng đắc đạo quả?”

Phật bảo chư tỳ-kheo rằng: “Chẳng phải đến ngày nay ta mới ra tay cứu độ cho cô ấy. Trong quá khứ ta cũng đã có lần cứu độ cô ấy rồi.”

Chư tỳ-kheo thưa thỉnh, xin được nghe nhân duyên thời quá khứ. Phật bảo chư tỳ-kheo: “Các ngươi hãy chú tâm lắng nghe, ta sẽ vì các ngươi mà phân biệt giảng nói. Về thuở quá khứ cách đây đã vô số kiếp, vua xứ Ba-la-nại có vị thái tử tên là Tôn-đà-lỵ, bỏ ngôi báu mà vào chốn rừng núi tu tập, chứng đắc được năm phép thần thông.

“Khi ấy có cô gái khẩn-na-la muốn làm cho người động tâm, liền hiện hình đến trước mặt, đủ vẻ xinh đẹp, thanh lịch, chẳng khác gì chư thiên trên cõi trời. Cô gái ấy biểu diễn đủ các điệu ca múa hay khéo để mong làm xiêu lòng thái tử.

Vị thái tử ấy tâm đạo kiên cố, chẳng hề lay chuyển, liền lên tiếng nói với cô gái khẩn-na-la ấy rằng: “Tất cả các pháp hữu vi đều không thường tồn, có sinh có diệt. Ta nay nhìn vào thân thể người, đã thấy trước sự già nua, xấu xí rồi sẽ đến, chẳng còn gìn giữ được bao lâu nữa. Tại sao nay ngươi còn buông thả phóng túng, chẳng lo tu tập, lại còn muốn làm cho ta phải động tâm mà thối chí hay sao?”

Cô gái khẩn-na-la ấy nghe thái tử nói rồi, liền tự thấy hổ thẹn, quỳ lạy cầu xin sám hối tội lỗi. Sám hối rồi, hướng đến thái tử mà phát nguyện rằng: ‘Ngày sau nếu ngài vượt thoát được biển khổ sinh tử, tôi nguyện được ở nơi chỗ ngài để tu tập chứng đạo.’

Phật lại nói rằng: “Này chư tỳ-kheo! Vị thái tử tu đắc ngũ thông, nay chính là ta đây. Cô gái khẩn-na-la thuở ấy, nay là vũ nữ Thanh Liên Hoa, vừa mới xuất gia nhập đạo, chứng đắc đạo quả đó.”

Các vị tỳ-kheo nghe Phật thuyết nhân duyên này xong thảy đều vui mừng tin nhận.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/05/2015(Xem: 5752)
Em đừng hỏi vì sao tôi cưới em Chỉ đơn giản bên em tôi thở được Đó là hai câu thơ của thầy tôi làm tặng người vợ thân yêu của mình khi thầy bị bệnh phải nhập viện.
07/05/2015(Xem: 5805)
Ngày còn đi làm, cứ mỗi lần đến ngày 13 thứ sáu, các bạn đồng nghiệp trong sở tôi kiêng cử dữ lắm, ai cũng cho đó là ngày xấu nhất trong năm. Tôi thì không tin, chỉ cười, cũng không phản đối lòng tin của bạn bè nhưng bây giờ tôi cũng đâm ra sợ ngày này vô cùng: 13 Thứ sáu - ngày Anh tôi ra đi thật quá bất ngờ và quá đau đớn!
02/05/2015(Xem: 3884)
Khi tôi gặp Thầy lần đầu tiên, tôi thật sự là một kẻ phàm phu tục tử có đầy đủ tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến, đã chẳng tu mà chỉ biết hú là giỏi. Mặc dù tôi được sinh ra từ một gia đình có tiếng là theo đạo Phật lâu đời, nhưng từ khi có sự hiểu biết, tôi thấy bà và mẹ chỉ đi chùa mỗi năm vài lần vào dịp lễ lớn, cũng lạy Phật, thắp hương, khấn vái sì sụp gì đó rồi… hết. Còn tôi thì sao, tôi bị sinh ra vào những năm sau cuộc chiến, tưởng là hòa bình lập lại thì dân giàu nước mạnh, tôn giáo được tự do phát triển không ngờ mọi việc hoàn toàn ngược lại, ăn còn không đủ no nói gì đến việc đi chùa nghe Pháp, đọc kinh. Tóm lại tôi hoàn toàn mù tịt về Phật Pháp.
02/05/2015(Xem: 4738)
Tôi gặp nàng tại Đại nhạc hội Việt Nam tổ chức tại Düsseldorf vào một mùa Giáng Sinh xa xưa nhưng không bao giờ quên được dù nàng lúc đó lẫn lộn giữa rừng người đông đảo. Nàng không xinh đẹp tuyệt trần, không ăn mặt lòe loẹt nổi bật, cũng không hoạt bát ồn ào gây sự chú ý của mọi người. Nhưng đối với tôi thì nàng thật đặc biệt với dáng vẻ đoan trang thùy mỵ, với đôi mắt dịu dàng và với sự im lặng của nàng trong một góc vắng của hội trường. Nàng đứng đó, tay cầm một cuốn sách nhỏ, vừa đọc vừa... gặm bánh mì, thỉnh thoảng lại ngước mắt lên nhìn xung quanh coi có gì “lạ” không rồi lại cắm đầu vào cuốn sách, cứ y như trong đó có chỉ chỗ giấu kho vàng vậy!
01/05/2015(Xem: 15515)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé. Hy hữu, vì biết lấy Phật giáo làm lý tưởng đời mình và chọn sự thực hành Phật Pháp như là sinh hoạt nền tảng hàng ngày—không phải ai sinh ra trong gia đình đó cũng đều tin Phật từ nhỏ đến lớn, và nếu tin Phật, cũng không gì bảo đảm là hiểu Phật, thực hành đúng đắn con đường của Phật để gọi là con Phật chân chính.
23/04/2015(Xem: 3219)
Năm nay 2015 tôi có đến ba mùa Xuân. Đó là mùa Xuân của nước Đức, mùa Xuân của nước Nhật và mùa Xuân của Hoa Kỳ. Thông thường mùa Xuân bắt đầu vào cuối tháng 3 dương lịch và kéo dài ba tháng như vậy, để thuận với lẽ tuần hoàn của vạn hữu là Xuân, Hạ, Thu, Đông; nhưng cũng có nhiều nơi mỗi năm chỉ có hai mùa như quê tôi Việt Nam, là mùa mưa và mùa nắng. Trong khi đó Âu Châu, nhất là vùng Bắc Âu, mỗi năm cũng chỉ có hai mùa. Đó là mùa lạnh kéo dài nhiều khi đến 6 hay 7 tháng và mùa ấm chỉ có chừng 3 đến 4 tháng là cùng. Dĩ nhiên là sẽ không có mùa Hè và trời vào Thu lại nhanh lắm, để đón tiếp một mùa Đông băng giá lạnh lùng.
15/04/2015(Xem: 11467)
Một sớm mai nọ, tôi không nhớ ngày ta, ngày tây, chỉ nhớ đầu năm 1984. Buổi sáng hôm ấy đầy dáng Xuân cả đất trời Nam Hà, khi tôi và hằng trăm tù nhân chính trị trên đường đến hiện trường lao động ở dải đất dài, mà hai bên toàn là núi đá vôi cao, thấp trùng trùng, điệp điệp. Người địa phương Ba Sao gọi là THUNG.
31/03/2015(Xem: 18806)
Dianne Perry, (sau này được biết đến qua pháp danh Tây Tạng của cô là Tenzin Palmo) là một vị ni cô người Anh đầu tiên, đã ẩn cư thiền định suốt 12 năm trong một hang động cao 12.300 bộ trên dãy Hy Mã Lạp Sơn, cách ngăn khỏi thế giới trần tục bởi những rặng núi phủ đầy tuyết trắng quanh năm. Tenzin Palmo đã sống một mình và tu tập trong động tuyết này. Cô đã chạm trán với những thú rừng hoang dã, đã vượt qua những cơn lạnh khủng khiếp, những cái đói giết người, và những trận bão tuyết kinh hồn; cô tự trồng lấy thực phẩm và ngủ ngồi trong cái hộp gỗ rộng cỡ 3 bộ vuông (theo truyền thống Tây Tạng, các vị tu sĩ đều tọa thiền trong một cái hộp gỗ như vậy). Cô không bao giò ngủ nằm. Mục đích của Tenzin Palmo là chứng đạo trong hình tướng một người nữ.
18/03/2015(Xem: 6363)
Tôi sinh ra ở miền sông nước Nam Bộ của xứ Việt. Nhưng thật lạ, phải gần nửa đời tôi mới bắt đầu nhận ra mình vốn yêu sông nước. Tôi yêu quê từ những miền đất lạ mà mình đi qua, và tệ nhất khi đôi lúc chỉ là những nơi chốn xa ngái mịt mù chỉ nhìn thấy trong sách vở, phim ảnh. Và kỳ chưa, đó cũng là cách tôi yêu đạo Phật. Ăn cơm chùa từ bé, nhưng phải đợi đến những giây khắc nghiệt ngã, khốc liệt nhất bình sinh, tôi mới nhìn thấy được rõ ràng nụ cười vô lượng của đức Phật bất chợt hiện lên đâu đó cuối trời thống lụy.
05/03/2015(Xem: 3281)
Có những kỷ niệm tưởng rằng sẽ mờ nhạt theo tháng ngày tất tả, trôi xuôi đến tận cùng triền dốc của cơm áo xứ người. Nhưng không, mỗi khi trời đất đổi mùa thì lòng người lại bâng khuâng, ký ức lại hiện về rõ nét, dù đó là một khoảng thời gian đã qua, một ký ức đã xa... Chỉ còn lại trong tim nhưng cũng đủ xót xa lòng khi nhớ đến! Hình ảnh bà cụ già nua ốm yếu, ngồi cô đơn trong căn chòi tranh rách nát, vào một buổi chiều âm u buồn thảm vẫn còn đậm nét trong lòng tôi, nhớ đến là bồi hồi xao xuyến cả tâm can. Buổi chiều ở Đồng tháp Mười buồn quá sức, buồn đến não nuột xót xa, một chòi tranh nằm chơ vơ bên con lạch nước đục ngầu, không người qua lại, xung quanh chỉ có tiếng ếch nhái than van!
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]