Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

52. Cậu bé được sinh lên cõi trời

04/03/201103:31(Xem: 6547)
52. Cậu bé được sinh lên cõi trời

MỘT TRĂM BÀI KINH PHẬT
Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải

PHẨM THỨ SÁU: CHƯ THIÊN CÚNG DƯỜNG

CẬU BÉ ĐƯỢC SINH LÊN CÕI TRỜI

Lúc ấy, Phật ở gần thành Xá-vệ, trong vườn Kỳ thọ Cấp Cô Độc. Trong thành có một người bà-la-môn làm ruộng. Người ấy cưới được một cô vợ cũng hợp ý với mình, không bao lâu sinh được một bé trai kháu khỉnh, đặt tên là Nguyệt Quang. Lớn dần lên, dung mạo đoan trang, ai thấy cũng đều yêu mến.

Một hôm, cậu bé Nguyệt Quang có dịp đi chơi với trưởng giả Tu-đạt, được ông dẫn đến tinh xá Kỳ Hoàn, nghe Phật thuyết pháp. Do có túc duyên từ nhiều kiếp, cậu ngộ được nghĩa lý của một bài kệ bốn câu. Đêm hôm ấy về nhà, mạng chung sinh lên cõi trời Đao-lỵ.

Bấy giờ, cha mẹ của cậu bé Nguyệt Quang vô cùng đau khổ, than khóc thảm thiết, đến nghĩa địa rồi ôm xác cậu mà kêu gào, chẳng chịu về nhà. Bằng hữu quyến thuộc khuyên can đều chẳng được.

Lòng bi lụy ấy cảm ứng đến tận cõi trời, khiến cho cung điện của vị thiên tử Nguyệt Quang khi ấy phải chấn động, không được an ổn. Người liền tự quán sát biết được nguyên nhân, thấy cha mẹ đời trước của mình hiện vẫn còn ôm xác mà kêu gào nơi nghĩa địa, chẳng chịu về nhà.

Thiên tử Nguyệt Quang khi ấy liền từ cõi trời hiện xuống, hóa hình thành một vị tiên nhân đi lại chỗ cha mẹ mình đang khóc lóc. Tiên nhân ấy vừa đi vừa lấy lửa mà tự đốt thân mình.

Người cha lấy làm lạ liền hỏi rằng: “Bạch đại đức, người lấy lửa nóng đốt thân mình khổ sở như vậy, có sở nguyện gì hay chăng?”

Tiên nhân đáp: “Ta cầu sẽ được làm vua một cõi, có xe đi làm bằng vàng ròng, trang hoàng bằng các món trân bảo, mặt trời mặt trăng phải theo hầu hai bên ta, lại sai bốn vị thiên vương kéo xe của ta đi du hành khắp bốn cõi thiên hạ. Người thấy như vậy chẳng thích lắm sao?”

Người bà-la-môn cha của Nguyệt Quang liền đáp rằng: “Tôi nghĩ dù ông có ngày đêm chịu khổ lửa nóng đốt thân như vậy cho đến cả trăm năm, thì sở nguyện của ông cũng chẳng thể nào thành tựu được.”

Khi ấy, tiên nhân liền hỏi lại: “Thế hai ông bà ở nơi nghĩa địa này mà ôm cái xác chết ấy, có sở nguyện gì chăng?”

Vợ chồng người bà-la-môn đáp: “Đây là đứa con duy nhất mà chúng tôi yêu quý. Nay nó bỏ chúng tôi mà đi. Chúng tôi ôm xác này cầu mong nó sống lại.”

Tiên nhân liền nói: “Ta nghĩ dù hai ông bà có ôm tử thi ấy mà gào khóc suốt đêm ngày, kéo dài cho đến cả trăm năm, thì sở nguyện ấy cũng không thể nào thành tựu được.”

Khi ấy, người bà-la-môn nghe được lời nói của tiên nhân rồi, liền tự thấy hổ thẹn, biết được sự phi lý của mình, liền thôi không còn gào khóc nữa. Khi ấy, tiên nhân liền hiện lại nguyên hình thiên tử cõi trời, nói với cha mẹ rằng: “Ta chính là đứa con duy nhất của hai người đây. Nhờ duyên lành được nghe pháp Phật, nên mạng chung đã sinh lên cõi trời Đao-lỵ. Nay muốn cho cha mẹ đừng âu sầu khỏ não nữa nên mới từ cõi trời mà hiện xuống đây.”

Vợ chồng người bà-la-môn nghe biết như vậy rồi, vui mừng khôn xiết. Khi ấy, vị thiên tử hóa hiện đủ các thứ hương hoa, trân bảo, khuyên hai người nên cùng đi đến cúng dường Phật.

Đến nơi, lễ bái cúng dường Phật xong, liền cùng nhau ngồi lại mà nghe pháp. Phật vì mọi người mà thuyết pháp Tứ diệu đế, khiến tất cả đều đồng thời đắc quả Tu-đà-hoàn.

Bấy giờ, chư tỳ-kheo thấy vậy liền thưa hỏi Phật: “Bạch Thế Tôn! Vị thiên tử này nhờ nhân duyên gì mà có thể khuyên can cha mẹ đời trước, lại được nghe pháp Phật mà đắc quả?”

Phật bảo chư tỳ-kheo: “Không phải chỉ đến ngày nay người này mới khuyên giải giúp ích cho cha mẹ. Trong đời quá khứ cũng đã từng vì cha mẹ mà khuyên giải làm cho không còn sầu não.”

Chư tỳ-kheo lại thưa hỏi: “Chẳng biết nhân duyên quá khứ như thế nào, xin được Thế Tôn giảng giải cho nghe.”

Phật bảo chư tỳ-kheo: “Các ngươi hãy chú tâm lắng nghe, ta sẽ vì các ngươi mà phân biệt giảng nói. Về thuở quá khứ cách đây đã vô số kiếp, xứ Ba-la-nại có một người ngu si thời làm chuyện trộm cắp, tà dâm, dối gạt người khác, bị quan binh truy nã bắt được, giải lên cho vua.

Vua xét hỏi tội trạng, người ấy thú thật đủ mọi điều, liền xử tội phải mang đi chém.

Bấy giờ, đứa con trai của người ấy tánh nết nhân từ, hiền thuận, nhu hòa, lại hiếu kính với cha mẹ, nhân dân cả nước đều biết. Người con ấy vì thương cha nên đến khẩn cầu nhà vua xin tội cho cha. Vua chẳng thuận cho. Lại khẩn khoản cầu xin đến lần thứ ba, vua không nỡ giết liền truyền tha tội.”

Phật bảo chư tỳ-kheo: “Kẻ tội nhân suýt chết ngày ấy, nay chính là người bà-la-môn cha của Nguyệt Quang. Người con hiền đức, hiếu thuận ấy nay là vị thiên tử đây. Do nhân duyên có một lần vào thời Phật Ca-diếp ra đời đã thọ Tam quy y, nên đến nay được gặp ta, nghe pháp mà đắc đạo.

Phật thuyết nhân duyên cậu bé Nguyệt Quang sinh lên cõi trời rồi, trong chúng hội có người đắc quả Tu-đà-hoàn, cho đến có người phát tâm cầu quả vô thượng Bồ-đề.

Các vị tỳ-kheo nghe Phật thuyết nhân duyên này xong thảy đều vui mừng tin nhận.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/09/2013(Xem: 3574)
Từ xưa đến nay đã có biết bao nhiêu áng văn tuyệt tác, bao nhiêu bài thơ trữ tình, bao nhiêu ca khúc vinh danh người Mẹ, trong đó bài hát “Lòng Mẹ“ của Y-Vân đã trở thành bất hủ, mỗi lần nghe là mỗi lần cảm thấy xúc động cả tâm can! Riêng tôi, tôi lại muốn viết để ca ngợi người Cô ruột của tôi, cô là hình ảnh của người mẹ thứ hai, dù đã không sinh ra tôi. Mới một tuổi tôi đã mất mẹ, trong khi đó hai anh trai tôi cũng chỉ mới lên bốn và lên hai. Câu nói của ai đó cùng nghe càng thấm thía vô cùng: „Ngày ta đau khổ nhất là ngày ta mất mẹ, lúc ấy ta khóc mà không có mẹ bên cạnh để dỗ dành“.
20/09/2013(Xem: 8220)
Bà Tám( bước ra sân khấu, than): Trời ơi là trời! Cho mượn rồi lại cho mượn, mượn “woài“ không chịu trả, này trời!. Bà con nghĩ có ức cho tôi không. Nhìn cái mặt tôi nè, tôi hiền…khô hà. Nhân từ, đạo đức, tử tế, đàng hoàng nổi tiếng. Hồi đi học tôi được mệnh danh là, em… hiền như ma…cô, à không, hiền như ma…sơ. Bởi hiền hậu nhân đức nên tôi mới chọn cho mình cái nghề thiệt là cao quí: cho vay lấy lãi.Cho mượn 100 lấy lời có 50 mỗi tháng, nhiều… nhít gì mà…đứa nào vay cũng quịt cả lời lẫn vốn của tôi. Được rồi, lần này tôi không thể hiền nữa đâu, hiền quá chúng lờn mặt hà.Tôi phải tới nhà thằng Tư…xiết đồ nó mới đã nư giận!( nói xong ngoe nguẩy đi vô )
20/09/2013(Xem: 11222)
Thị Mầu (một tay cầm giỏ hoa, một tay cầm dù, ỏn ẻn bước ra): Dạ, Thị Mầu xin kính chào ông Đạo! Ông Đạo: Nam Mô A Di Đà Phật. Thị Mầu: Ông Đạo ơi, ông Đạo nè. Hôm nay Thị Mầu đến chùa, trước là có ít hương hoa lễ Phật, Thị Mầu để tạm đây nghe ông Đạo, sau là muốn thăm ông Đạo. Ông Đạo có khoẻ không ông Đạo?
19/09/2013(Xem: 13558)
Chẳng là một tối nọ tình cờ tôi xem được đoạn phim Nghịch Duyên của hãng phim Mã Lai, tả một câu truyện có thật xảy ra tại Trung Quốc từ thời xa xưa nào đó. Nhân vật chính chỉ có hai người là Chàng và Nàng, hay anh Chồng và chị Vợ, họ lấy nhau đã lâu nhưng không có con. Vợ chồng sống khá hạnh phúc với nghề bán rau cải tươi ngoài chợ. Cho đến một hôm chị Vợ nghe được một bài Pháp của một vị Hòa Thượng giảng về công năng của câu Niệm Phật sẽ được vãng sanh.
17/09/2013(Xem: 6728)
Dọn đến nhà này cả tuần hắn mới bắt đầu nghe như có người đi lại trong nhà. Hắn nghĩ tới lời báo trước khi mua căn nhà trong chúng cư này. Nhà để bảng bán đã lâu mà không ai chịu mua. Giá nhà mỗi ngày một sụt xuống một cách thảm hại, không bằng nửa giá những căn chung quanh. Chủ nhà chỉ muốn bán tống bán tháo cho rảnh nợ. Đã thay tới ba người giới thiệu nhà đất mà nhà vẫn trơ trơ ra đó. Khi bà giới thiệu nhà đất đưa hắn đến coi nhà, hắn ưng ý liền. Cái gì cũng còn tốt nguyên, có thứ còn mới toanh như cái tủ lạnh và cái máy rửa chén. Hắn ngạc nhiên hỏi bà "nhà đất" :
17/09/2013(Xem: 9100)
Vầng trăng ai xẻ làm tư. Nửa in Bút Nữ, nửa soi gầm giường. Ai bảo Hoa Lan không biết làm thơ ? Không, cô nàng ngoài tài viết văn quyến rũ độc giả đưa vào mê hồn trận với những mối tình A Còng và Nghịch Duyên, cũng biết xuất khẩu thành thơ đấy. Nhưng thơ của nàng thì ôi thôi chẳng ai chịu nổi cả vì chỉ toàn đi chôm thơ của người khác rồi cải biên, tân trang lại cho đúng vần đúng điệu và cuối cùng nhận là thơ của mình.
16/09/2013(Xem: 8837)
Hồ Bodensee tiếp giáp ba nước Áo, Đức, Thụy Sĩ vẫn còn đó, nhà Thi Thi ( Thi Thi Hồng Ngọc ) vẫn còn kia, trái đất tròn vẫn luôn tròn không méo, cho nên, chúng tôi hẹn gặp lại nhau không khó.Chỉ khó chăng tại lòng người “đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông „.Vâng, đúng vậy, tôi đã lừng khừng nửa muốn nửa không, ngán ngẫm khi nghĩ phải lủi thủi kéo valy một mình dù đoạn đường không dài, chỉ hai tiếng xe lửa từ nhà tôi qua Thi Thi rồi đến tu viện Viên Đức.
11/09/2013(Xem: 4427)
Nói đến hai chữ “Hạnh Phúc”, tôi chợt mỉm cười nhớ lại buổi học sinh động tại Khóa Tu Học Âu Châu với Hoà thượng Phương Trượng chùa Viên Giác Đức quốc. Hôm đó, Hòa thượng yêu cầu, học viên định nghĩa thế nào là hạnh phúc. Bao câu trả lời được nêu ra: Kiếm được nhiều tiền là hạnh phúc.
11/09/2013(Xem: 6800)
Có phải bất công lắm không khi hằng năm vào dịp Vu Lan, trên thế gian này không biết bao nhiêu văn nhân, thi sĩ, nhạc sĩ múa bút tán tụng tình Mẹ: Huyền thoại mẹ, Phật giáo tôn vinh giá trị những bà mẹ, lạm bàn về mẹ, tản mạn về mẹ v.v... và v.v... bên cạnh đó, dường như mọi người đã vô tình bỏ quên một thứ tình cũng nồng nàn không kém, đôi khi còn thắm thiết hơn, đó là tình cha. Vâng, tôi có một người cha như thế.
11/09/2013(Xem: 4661)
“Anh mong chờ mùa Thu. Trời đất kia ngả màu xanh lơ”, Bên kia khung cửa sổ, hàng phong lá đổi màu, những con đường ngập lá vàng rơi, những cơn gió se se lạnh vào mỗi buổi sớm mai, tất cả như báo hiệu mùa thu đang đến với mọi người.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]