Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

46. Bà mẹ bỏn sẻn

04/03/201103:31(Xem: 6309)
46. Bà mẹ bỏn sẻn

MỘT TRĂM BÀI KINH PHẬT
Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải

PHẨM THỨ NĂM: LÀM ÁC ĐỌA NGẠ QUỶ

BÀ MẸ BỎN SẺN

Lúc ấy, Phật ở thành Vương-xá, trong tinh xá Trúc Lâm. Trong thành có một vị trưởng giả giàu có vô cùng, lại chọn được người vợ cũng thuộc dòng cao sang quyền quý.

Khi ấy, người vợ mang thai đủ ngày tháng sanh được một đứa con trai, hình dung xinh đẹp, khôi ngô ít có. Cha mẹ đều vui vẻ, nhân đó mới đặt tên là Ưu-đa-la.

Dần dần khôn lớn, không may người cha mất sớm. Ưu-đa-la khi ấy suy nghĩ rằng: “Cha ta trước đây chuyên đường buôn bán kiếm lãi, nhờ đó mà dựng thành gia nghiệp. Ta nay không nên đi theo đường ấy, mà nên kính tin Phật pháp.” Nghĩ vậy rồi liền thưa với mẹ xin được xuất gia tu học.

Người mẹ đáp rằng: “Cha con đã chết, nay ta chỉ còn có mỗi một mình con, sao nay con lại muốn bỏ ta mà ra đi xuất gia. Ta còn sống đây ngày nào, quyết không thuận cho con xuất gia. Mai sau ta có chết rồi, thì con tùy ý.”

Ưu-đa-la không thỏa ý nguyện, liền nói với mẹ: “Nếu mẹ không cho con xuất gia, con sẽ dùng thuốc độc tự vẫn.”

Mẹ khuyên dỗ rằng: “Con đừng nói vậy. Mẹ nghĩ con không cần phải xuất gia nhập đạo. Từ nay về sau nếu con muốn thỉnh các vị sa-môn, bà-la-môn đến cúng dường, ta đều chiều ý.”

Ưu-đa-la nghe vậy cũng nguôi ngoai. Từ đó thường thỉnh các vị tỳ-kheo tăng về nhà cúng dường.

Người mẹ thấy các vị tỳ-kheo thường đến nhà thọ nhận cúng dường nhiều lần, sinh lòng tham tiếc, không vui. Lâu dần bà buông ra nhiều lời nhục mạ, xúc xiểm các vị.

Có lần Ưu-đa-la đi vắng chẳng có nhà, mẹ liền lấy một ít thức ăn đổ cho rơi vãi trên mặt đất. Ưu-đa-la trở về, mẹ lại nói rằng: “Khi con đi chẳng có nhà, mẹ có thỉnh các vị tỳ-kheo đến nhà cúng dường đầy đủ các món ăn ngon lạ.” Nói rồi dẫn Ưu-đa-la đến chỗ thức ăn đổ mà chỉ cho xem, nói: “Con xem, thức ăn thừa rơi vãi cũng vẫn còn đó.” Ưu-đa-la nghe và thấy như vậy thì tin là thật và lấy làm vui mừng, hoan hỷ.

Đến khi người mẹ mạng chung, do tạo ác nghiệp như thế mà phải đọa làm thân ngạ quỷ. Còn Ưu-đa-la không còn vướng bận gia đình liền xuất gia nhập đạo, tinh cần tu tập, đắc quả A-La-hán. Ngày kia, khi đang ngồi thiền trong một hang động nơi bờ sông, có một ngạ quỷ miệng phun ra lửa, thân thể nóng khát, hiện đến nơi ấy mà nói rằng: “Ta là mẹ của con đây.”

Tỳ-kheo Ưu-đa-la lấy làm kinh quái, nói rằng: “Mẹ ta sanh tiền thường làm việc bố thí, cúng dường tỳ-kheo tăng, làm sao có thể thọ quả báo làm thân ngạ quỷ được?”

Ngạ quỷ đáp rằng: “Quả thật là mẹ đây. Ngày xưa mẹ tham lam, bủn xỉn, chưa từng thật lòng cúng dường tỳ-kheo tăng, chỉ dối gạt con đó thôi. Chính vì vậy mà phải sinh làm thân ngạ quỷ, đã 20 năm nay chưa từng được món ăn thức uống gì vào miệng. Khi đến bờ sông, nước sông liền khô kiệt; gặp quả trên cây, cây với quả đều khô chết. Mẹ nay đói khát, khổ sở vô cùng, chẳng thể dùng lời mà nói ra cho hết được.”

Tỳ-kheo Ưu-đa-la lại hỏi: “Nguyên do thật sự là thế nào?” Ngạ quỷ đáp: “Tuy mẹ có vì con mà làm việc bố thí, nhưng trong tâm tham lam, keo kiệt, thường tiếc rẻ những thứ mang ra cúng dường. Vì thế mà chẳng có lòng cung kính đối với các vị tỳ-kheo tăng, lại nhiều lần nặng lời mạ nhục, xúc phạm. Nay nếu con vì mẹ mà thiết lễ cúng dường Phật và chư tăng, vì mẹ mà sám hối các ác nghiệp, thì mẹ có thể nhờ đó mà thoát được thân ngạ quỷ này.”

Ưu-đa-la khi ấy hết lòng thương mẹ, liền đi quyên góp vật thực khắp nơi trong thành, thiết lễ cúng dường thỉnh Phật và chư tăng đến thọ nhận. Lễ cúng dường xong, ngạ quỷ liền hiện thân đến giữa chúng hội mà sám hối các ác nghiệp.

Đức Thế Tôn khi ấy vì ngạ quỷ mà khai diễn thuyết pháp. Nghe Phật thuyết pháp rồi, ngạ quỷ tự thấy xấu hổ vì những nghiệp ác đã tạo, ngay trong đêm đó mạng chung, lại sinh làm loài ngạ quỷ phi hành.

Khi ấy, ngạ quỷ phi hành hiện hào quang quanh thân, có đủ các món trang sức quý báu, đẹp đẽ, hiện đến chỗ Ưu-đa-la mà nói rằng: “Mẹ nay vẫn chưa thoát được thân ngạ quỷ. Con nên vì mẹ thiết lễ cúng dường tăng chúng khắp bốn phương, mẹ có thể nhờ đó mà thoát thân ngạ quỷ.”

Ưu-đa-la nghe vậy rồi, lại một lần nữa quyên góp vật thực nhiều nơi, thiết lễ cúng dường thỉnh chư tăng bốn phương cùng thọ nhận. Lễ cúng dường xong, ngạ quỷ phi hành liền hiện đến trước chúng hội, sám hối các ác nghiệp đã tạo. Ngay trong đêm đó liền mạng chung, sinh lên cõi trời Đao-lỵ.

Khi ấy, vị chư thiên mới sinh lên cõi trời ấy liền tự hỏi: “Ta đã tạo được phước đức gì mà nay được sinh lên cõi trời này?” Rồi tự quán sát, nhớ lại việc tỳ-kheo Ưu-đa-la vì mình hai lần thiết hội cúng dường Phật và chư tăng, nhờ đó mà được thoát thân ngạ quỷ, sinh lên cõi trời. Nhớ lại rồi, liền tự nghĩ rằng: “Nay ta nên đến đó báo ơn Phật và tỳ-kheo Ưu-đa-la.”

Nghĩ rồi, liền hiện thân trang nghiêm đẹp đẽ của chư thiên, mang theo những hoa hương, trân bảo ở cõi trời, hiện đến chỗ Phật và tỳ-kheo Ưu-đa-la mà cúng dường. Lễ cúng dường xong, liền ngồi lại một bên nghe Phật thuyết pháp. Nghe rồi được khai mở tâm ý, chứng quả Tu-đà-hoàn, liền lễ bái Phật rồi quay về cõi trời.

Khi Phật thuyết nhân duyên đọa ngạ quỷ của người mẹ Ưu-đa-la, chư tỳ-kheo trong chúng hội liền lìa bỏ lòng tham lam, sân hận, lánh sợ đường sinh tử, có người đắc quả Tu-đà-hoàn, có người đắc quả Tư-đà-hàm, có người đắc quả A-na-hàm, có người đắc quả A-La-hán, lại có nhiều người phát tâm cầu quả Phật Bích-chi, cũng có người phát tâm cầu quả vô thượng Bồ-đề.

Các vị tỳ-kheo nghe Phật thuyết nhân duyên này xong thảy đều vui mừng tin nhận.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/04/2013(Xem: 4487)
Trời đã sang đông. Tôi thường nghĩ vậy khi những cơn gió bấc vừa thổi qua, và nhìn lốc lịch trong năm chỉ còn lại vài chục tờ mỏng manh. Ơû cái thành phố phương nam nhộn nhịp này mà nói đến mùa đông, nghe ra chẳng mấy phù hợp. Về mặt địa hình địa lý quả là như thế. Nhưng với tâm lý chung mà hơn hết là trong dòng suy tưởng của tôi, thì mùa đông vẫn hiện hữu theo chu kỳ ở bất cứ nơi nào có sự sống. Còn nơi vùng đất vốn nổi tiếng hai mùa mưa nắng này cho đến cận ngày giáp tết, khí trời vẫn nóng bức khô khan.
10/04/2013(Xem: 4517)
Tượng Phật bằng đá không biết từ đâu lại được đặt trên chỉa ba của thân cây xoài bị cháy xém. Những ngày chiến sự tràn lan, người ta lo bồng bế nhau chạy ...
10/04/2013(Xem: 4171)
Đứng trên ban công- nơi đỉnh tháp cao nhất- có thể phóng tầm mắt nhìn khắp các dãy núi nhấp nhô mờ ảo trong đám sương mù. Nhiều buổi sáng rồi, thầy...
10/04/2013(Xem: 4765)
Thầy Minh Ký là một người lập dị khác đời. Mọi người đều nói về thầy như vậy, dù chẳng ai biết nhiều về thầy. Hai năm trước khi Hoà Thượng Viện Chủ ...
10/04/2013(Xem: 4386)
Không khí ướt đẫm, mây trắng là là giăng ngang đỉnh núi trông tợ như những tảng thiên thạch lớn thoạt ẩn thoạt hiện ra trong một buổi chiều đông giá buốt. Nhưng lúc này đang độ vào thu. Màu trời xen lẫn với màu xanh bạc của cánh rừng làm ánh lên chút sắc buồn thâm u diễm lệ. Cảnh sắc này ắt hẳn cũng từng ru hồn bao khách trần tìm đến để mong khám phá và chinh phục một cõi thiên nhiên hùng vĩ giữa đất trời.
10/04/2013(Xem: 5463)
Sài gòn không có mùa thu để nhuộn thêm sắc vàng cho những chiếc lá còn lay lắt trên cành. Sài Gòn cũng đâu có bầu trời thu trong và mát để cho thi nhân thả hồn mơ mộng mà tức cảnh sanh tình. Ở đây chỉ có cái nắng mưa bất chợt như lòng người vui buồn bất chợt, đến đi bất chợt. Tuy vậy, nơi mảnh đất có chiều dài lịch sử hơn ba trăm năm, đã từng sản sinh ra nhiều cái độc đáo…vừa chung mà lại vừa riêng. Đây cũng là nơi sẵn sàng quy tụ và phát huy mọi điều hay đẹp, kể cả những cái dung dị nhất, bình thường nhất. Từ đó đã tạo nên một dáng dấp Sài Gòn_ không giống ai mà cũng chẳng khác ai.
10/04/2013(Xem: 13645)
Cạnh con đường mòn, ven sườn núi tại Ngọc Nam, có một ngôi chùa nhỏ hoang vắng, nằm im lìm giữa một nơi hẻo lánh và quạnh quẽ. Mùa xuân năm ấy, giặc dã và trộm cướp nổi lên, dân chúng miền phụ cận đã chạy tản mác đi nơi khác, vị trụ trì trong chùa cũng bỏ trốn, chỉ để một mình ông già “ tứ cố vô thân” ở lại đèn hương sớm tối.
10/04/2013(Xem: 3321)
Chiều dần buông, khách vãn chùa lần lượt ra về, chùa Bảo Quang trở lại ninh tịnh, yên ắng. Pháp sư Trí Thông bảo đám đệ tử hồi phòng ngơi nghỉ, còn tự mình quét dọn nhà chùa, phủi sạch bụi bặm trần ai, xua tan mọi huyên náo nóng nực của cả một ngày.
10/04/2013(Xem: 6217)
Đức Phật, nàng Savitri và tôi là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Hồ Anh Thái, do Nhà xuất bản Đà Nẵng xuất bản. Tác phẩm được Công ty Văn hóa Phương Nam ấn hành với số lượng lớn, theo sự chuyển nhượng bản quyền với tác giả.
10/04/2013(Xem: 3735)
Phàm, ai lên đường cũng mang theo hành trang, nhiều hay ít, nặng hay nhẹ là do quan niệm về nhu cầu và mục đích chuyến đi. Khi gã đến bái biệt Thầy, lòng chợt rưng rưng khi chạm vào ánh mắt đầy xót thương. Chẳng lẽ chưa phải là lúc gã lên đường hay sao? Chẳng lẽ Thầy chưa thấy hết những quằn quại thôi thúc trong gã bấy lâu ư?
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]