Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

34. Vua Thiện Diện xả thân cầu pháp

04/03/201103:31(Xem: 6710)
34. Vua Thiện Diện xả thân cầu pháp

MỘT TRĂM BÀI KINH PHẬT
Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải

PHẨM THỨ TƯ: BỒ-TÁT RA ĐỜI

VUA THIỆN DIỆN XẢ THÂN CẦU PHÁP

Lúc ấy, Phật ở gần thành Xá-vệ, trong vườn Kỳ thọ Cấp Cô Độc. Đức Thế Tôn lấy tâm đại bi thương xót tất cả chúng hội, thường đem những chỗ pháp yếu vi diệu ngày đêm giảng thuyết cho nghe, mà chưa từng thấy ngài có chút chi mỏi mệt, chán nản. Chúng tỳ-kheo thấy vậy liền thưa hỏi Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Vì sao mà ngài ngày đêm thường vì tất cả chúng hội diễn thuyết các chỗ pháp yếu, chẳng hề chán ngán, mỏi mệt như vậy?”

Phật dạy chư tỳ-kheo: “Các ngươi nên chú ý lắng nghe, ta sẽ vì các ngươi mà phân biệt giảng nói.

“Này chư tỳ-kheo! Về thuở quá khứ, nước Ba-la-nại có vị vua tên là Thiện Diện. Thái tử con vua tên là Tôn-đà-lỵ. Thuở ấy trong nước nhân dân an lạc, thịnh vượng. Vua Thiện Diện là người thông minh trí tuệ, lại yêu chuộng đạo đức, thường mong cầu được nghe diệu pháp. Vua cho đặt các thứ vàng bạc, châu báu, tài vật ở những nơi ngã tư đường, truyền rao trong dân chúng rằng, nếu ai có thể vì vua diễn thuyết diệu pháp, vua sẽ đem những vàng bạc, trân bảo, tài vật ấy mà ban thưởng cho.

“Lòng thành cầu pháp của vua chấn động đến tận thiên cung, khiến cho cung điện của Đế-thích rung chuyển, không được an ổn. Khi ấy, Đế-thích liền dùng thần lực quán sát, hiểu được nguyên nhân là do lòng cầu pháp chân thành của vua Thiện Diện cảm ứng mà có sự chấn động như vậy.

“Đế-thích liền hóa hình thành một quỷ la-sát dữ tợn, có hai răng nanh dài nhọn sắc bén, ai ai nhìn thấy đều khiếp sợ. La-sát bay đến nơi cung vua, cất tiếng nói lớn rằng: ‘Ta có diệu pháp.’ Vua nghe được, lập tức thân hành ra nghinh tiếp, xin được nghe diệu pháp. Quỷ la-sát nói: ‘Ta thật có biết diệu pháp, nhưng nay đang cơn đói khát, chẳng thể vì vua mà diễn thuyết được.’

“Vua nghe vậy liền truyền mang đến đủ các thứ món ngon vật lạ cho la-sát. Quỷ ấy nói rằng: ‘Ta vốn chỉ ăn được thịt sống và uống máu nóng mà thôi. Những món này chẳng phải thức ăn của ta.’

“Khi ấy, thái tử Tôn-đà-lỵ đang đứng hầu bên liền tâu vua rằng: ‘Tâu phụ vương! Xưa nay diệu pháp rất khó được nghe. Con xin được thí thân cho vị la-sát này tùy ý ăn thịt uống máu, chỉ nguyện cho phụ vương được nghe diệu pháp.’

“Vua nghe thái tử phát tâm rộng lớn chẳng tiếc thân mạng, liền suy nghĩ rằng: ‘Ta từ bao kiếp đến nay buộc chặt trong vòng luyến ái, khiến cho lưu chuyển sinh tử mãi mãi không cùng. Nay nếu vì được nghe diệu pháp, cũng đáng xả bỏ đứa con yêu dấu của mình vậy.’ Nghĩ vậy rồi liền thuận cho ‘thái tử được tùy ý.

“Thái tử được vua cha thuận cho, liền tự đến trước quỷ la-sát mà nộp mạng. La-sát được mồi liền ngay trước mặt vua mà xé xác thái tử, uống máu, ăn thịt ra vẻ ngon lành. Ăn xong liền nói: ‘Ta vẫn chưa no bụng, làm sao thuyết pháp?’

“Bấy giờ hoàng hậu đứng bên, thấy rõ việc thái tử xả thân cho la-sát ăn thịt, thì trong lòng tự suy nghĩ rằng: ‘Con ta còn dám xả bỏ thân mạng, huống hồ thân ta, lẽ nào không dám thí xả?’ Nghĩ rồi, liền y vậy mà tâu với vua. Vua thuận cho.

“Hoàng hậu được vua thuận cho, liền tự đến trước quỷ la-sát mà nộp mạng. La-sát lại xé xác ra ăn cũng giống như đã ăn thịt thái tử. Ăn xong, xem bộ vẫn còn đói khát, lại nói với vua rằng: ‘Nay vua nên nộp mạng cho ta ăn luôn đi.’

“Vua Thiện Diện đáp: ‘Tôi cũng chẳng tiếc gì thân mạng này. Chỉ hiềm nếu chết đi thì chưa được nghe diệu pháp. Vậy ngài hãy thuyết pháp trước đi, tôi nghe xong xin nộp mạng cho ngài ăn.’

“Khi ấy, Đế-thích thật biết lòng vua thành tín, liền vì vua mà đọc kệ rằng:

Ái luyến sinh sầu bi,
Ái luyến sinh sợ hãi.
Người thoát được ân ái,
Vĩnh viễn không sợ hãi.

“Đế-thích đọc bài kệ ấy xong, liền hiện lại nguyên hình. Thái tử và hoàng hậu cũng tự nhiên hiện ra an ổn vô sự. Vua nghe được bài kệ pháp yếu ấy, càng thêm vững tin hơn nữa. Lại nhìn thấy thái tử và hoàng hậu sống lại, lòng vui mừng vô hạn, không thể nói hết.”

Phật bảo các vị tỳ-kheo rằng: “Vua Thiện Diện thuở ấy, chính là ta ngày nay. Thái tử Tôn-đà-lỵ ngày ấy chính là A-nan ngày nay. Hoàng hậu thuở ấy, nay là Da-du-đà-la. Ta ngày trước tu đạo Bồ-tát mà còn xả bỏ thân mạng, vợ con để được nghe pháp, huống chi ngày nay thành Phật, có lẽ nào đối với việc thuyết pháp mà lại sanh lòng chán nản, mỏi mệt hay sao?”

Các vị tỳ-kheo nghe Phật thuyết nhân duyên này xong thảy đều vui mừng tin nhận.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/12/2014(Xem: 3611)
T huở nhỏ tôi mồ côi bố sớm, ở vào cái tuổi con nít vừa mới chập chững biết đi chưa nói được câu gọi bố lần đầu, bố tôi đã đi về miền cát bụi. Sự ra đi của ông đột ngột quá, còn trẻ quá mới 27 tuổi đầu làm sao không để lại bao luyến tiếc cho người ở lại. Dĩ nhiên mẹ tôi là người chịu nhiều đau đớn nhất, mới lấy chồng được hai năm cộng thêm đời chiến binh nên chỉ ở gần chồng vỏn vẹn có một tháng là nhiều. Con thơ còn bế ngửa trên tay, đầu quấn khăn tang người chồng yêu quí, đã phải xách tay nải leo lên chiếc thuyền viễn xứ nhổ neo lên đường như một bài hát nào đó.
01/12/2014(Xem: 13028)
Nguyên gốc tác phẩm này là của Genro, một Thiền sư thuộc tông Tào động Nhật Bản, viết và xuất bản năm 1783. Mỗi câu chuyện là một công án mà tác giả đã có lời bình và kệ đi kèm. Fugai, người thừa kế Genro, thêm nhận xét của sư, câu đối câu, vào sách của thầy. Tôi sẽ dịch các câu chyện hay tắc, gồm cả lời bình của Genro và nhận xét của Fugai trong hầu hết các câu chuyện để tham khảo. Có khi gặp bài kệ cũng dịch để khuyến khích học tập.
28/11/2014(Xem: 4220)
Tôi và cả vợ tôi nữa, hình như mấy ngày hôm nay, lòng lúc nào cũng tràn ngập niềm vui, hạnh phúc vô cùng! Chuyện chẳng có gì to tát lắm đâu mà sao chúng tôi vui mừng đến vậy. Tối thứ bảy vừa qua, sau khi tắt đèn, mở cửa phòng đi tìm nước uống chuẩn bị đi ngủ, tôi phát hiện ngay trước cửa phòng một túi quà nhỏ, món quà nhỏ bé của các con tôi, với một tờ giấy võn vẹn sáu chữ "Happy 40th year from your children". Chỉ với sáu chữ võn vẹn đó...đã khiến vợ chồng tôi ngẩn ngơ, quên đi hai chiếc đồng hồ tuyệt đẹp trên tay vợ tôi! Vợ tôi thì xúc động lắm, còn tôi, miệng thì luôn hỏi sao tụi nó lại nhớ đến ngày cưới của mình, nhưng lòng lại mơ màng nghĩ về những ngày này của 40 năm trước...Tôi cưới vợ!
16/11/2014(Xem: 4983)
Sau khi kết hôn hai năm, chồng tôi bàn với tôi đón mẹ lên ở chung để chăm sóc bà những năm tuổi già.Chồng tôi mất cha từ ngày anh còn nhỏ, mẹ chồng tôi là chỗ dựa duy nhất, mẹ nuôi anh khôn lớn, cho anh học hết đại học. “Khổ đau cay đắng” bốn chữ ấy vận đúng vào số phận mẹ chồng tôi! Tôi nhanh chóng gật đầu, liền đi thu dọn căn phòng có ban công hướng Nam, phòng có thể đón nắng, trồng chút hoa cỏ gì đó.Chồng tôi đứng giữa căn phòng ngập tràn nắng, không nói câu nào, chỉ đột ngột bế bổng tôi lên quay khắp phòng, khi tôi giãy giụa cào cấu đòi xuống, anh nói: “Đi đón mẹ chúng ta thôi!”.
15/11/2014(Xem: 10196)
Không và Có tương quan mật thiết với nhau như bóng với hình. Có bao nhiêu cái có thì cũng có bấy nhiêu cái không. Nếu cái có vô cùng vô tận, thì ...
14/11/2014(Xem: 4713)
Tại một ngôi trường tiểu học trong một thị trấn nhỏ ở Hoa Kỳ hôm nay là ngày đầu tiên khai giảng cho năm học mới. Cô Thompson là giáo viên phụ trách dạy lớp Năm. Cô giáo đứng trước các học sinh trong lớp học của mình và tương tự như các giáo viên khác, cô cũng nhìn khắp lượt vào các em học sinh và nói là cô sẽ thương yêu tất cả các học trò của cô như nhau, không có sự phân biệt nào cả. Cô đã nói với các đứa trẻ này điều đó, một điều mà cô tự biết là không thật lòng và cô biết là mình sẽ không thực hiện được.
08/11/2014(Xem: 6059)
Người đàn bà ngồi tựa vào tường trên lối mòn của một con hẻm. Mệt mỏi và thiếp đi cạnh quang gánh của mình. Hai đầu gánh là đủ thứ quà vặt như bánh tráng, kẹo, đến chanh, ớt… rồi có cả đồ chơi trẻ con chằng cột. Chị như muốn kéo cả thế giới chung quanh đi theo mình trong cuộc mưu sinh nhọc nhằn không có ngày tháng cuối.
07/11/2014(Xem: 7488)
Tại sao lại là những bài học bình dị? Vì những câu truyện ở đây sẽ chỉ ra cho các em thấy được những bài học đạo đức rất gần gũi trong cuộc sống...
07/11/2014(Xem: 31841)
Nói "Chùa Khánh Anh sau 30 năm" có nghĩa là đã bắt đầu bước sang năm thứ 30+1... Thật vậy, chùa Khánh Anh bắt đầu sinh hoạt từ Lễ Phật Đản 1974, tức 1 năm trước biến cố lịch sử 30/4/1975. Tại sao lại không phải là sau ngày 30/4/75 như nhiều nơi khác, và nhiều chùa khác ở hải ngoại? Thưa quý vị và bà con cô bác, đó mới là có chuyện để kể lại. Và cái đoạn này có nhiều chuyện để kể lắm. Nghĩa là nguyên nhân do đâu, và từ bao giờ đưa đến việc thành lập chùa Khánh Anh trước năm 75 và sinh hoạt cho đến ngày hôm nay?
01/11/2014(Xem: 5394)
Trước 1975, tôi là một phi công Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa. Tôi qua Mỹ từ ngày mất nước, khi tuổi đời vừa mới 25. Mang tiếng pilot bay bướm nhưng tôi không có lấy một mảnh tình, bởi vì tôi không có tài tán gái. Thời đó mặc dù phụ nữ Việt nam cao giá, mấy thằng bạn không quân lanh lẹ vẫn vớt được một cô vợ Việt. Tôi khù khờ, vài năm sau đành yên bề gia thất với một thiếu nữ Mỹ tuổi đôi mươi. Hồi mới cưới, cuối tuần tôi thường dẫn Carrol hội họp bạn bè, nhưng nàng cảm thấy lạc lõng giữa đám người Việt bất đồng ngôn ngữ và từ chối những buổi họp mặt. Xuất giá tòng thê, mất liên lạc với đám bạn cũ, tôi hoàn toàn hội nhập vào đời sống Mỹ. Khi đứa con gái lên 5, chẳng may Carrol bị bịnh thận. Căn bịnh quái ác kéo dài hành hạ nàng hơn 20 năm và nàng qua đời vào thời gian đứa cháu ngoại vừa tròn 3 tuổi. Gần 2 năm qua, nỗi buồn mất người vợ Mỹ tuy đã nguôi ngoai nhưng tôi vẫn giữ thói quen sống không bè bạn, vẫn âm thầm cô đơn chiếc bóng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]