Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 73: Những vắt cơm dấu trong mái tóc

13/01/201110:55(Xem: 10380)
Chương 73: Những vắt cơm dấu trong mái tóc

Đường xưa mây trắng
theo gót chân Bụt

Thích Nhất Hạnh
Lá Bối Xuất Bản lần 2, 1992, San Jose, Cali, USA

--- o0o ---

15.

Chương 73

NHỮNG VẮT CƠM DẤU TRONG MÁI TÓC

Một đêm nọ trong khi đang tọa thiền ngoài sân tịnh thất trên núi Linh Thứu. Bụt mở mắt và thấy có người đứng lấp ló sau cây đại thọ, Bụt lên tiếng mời người ấy đến. Dưới ánh trăng vằng vặc, người ấy đặt gươm xuống sân đất và quỳ xuống lạy Bụt như tế sao. Bụt hỏi:

- Ông là ai, đến đây để làm gì?

- Con xin lạy sa môn Gotama! Con xin lạy sa môn Gotama! Con vâng lệnh tới đây giết ngài nhưng thấy ngài, con không dám. Con đã cầm gươm định bước tới có hơn mười lần rồi mà không lần nào con dám bước tới. Con quyết định thôi không giết ngài nữa, nhưng con lại sợ nếu con không giết ngài thì khi về, con cũng bị chủ tướng con giết chết. Con chưa biết phải làm sao thì sa môn gọi con. Con xin lạy sa môn Gotama! Con xin lạy sa môn Gotama!

Bụt hỏi:
- Ai đã sai anh đến giết Như lai?

- Chủ tướng của con, nhưng con không dám nói tên chủ tướng của con đâu.

- Anh không nói cũng được, nhưng chủ tướng của anh nói với anh như thế nào?

- Bạch sa môn, chủ tướng của con chỉ cho con con đường phải đi để lên núi và chỉ cho con một con đường khác để trở về sau khi làm xong nhiệm vụ.

- Anh có vợ con gì không?

- Bạch sa môn, con chưa có vợ con gì cả. Con chỉ có một bà mẹ già.

- Anh nghe đây. Nghe cho thật kỹ và làm theo cho thật đúng. Anh hãy về nhà ngay đi, và đem mẹ anh vượt biên giới trốn sang nước Kosala ngay lập tức. Anh đưa mẹ sang bên ấy tị nạn và sinh sống, nhưng anh đừng xuống núi bằng con đường mà chủ tướng anh đã chỉ bày. Nếu xuống núi bằng đường ấy, anh sẽ bị mai phục giết chết giữa đường. Anh xuống núi bằng một con đường khác. Anh đi ngay đi.

Người lạ mặt lạy xuống một lạy nữa rồi đi mất, để lại thanh gươm trên nền đất.

Sáng hôm sau, hai đại đức Sariputta và Moggallana tìm tới viếng Bụt. Hai vị bạch:

- Chúng con nghĩ là đã đến lúc chúng con phải đi qua bên ấy để giúp các anh em khất sĩ đã vì dại dột mà đi lầm đường lạc lối. Chúng con xin phép Bụt cho chúng con vắng mặt một thời gian.

Bụt nhìn hai vị đại đệ tử:

- Các thầy đi thì đi, nhưng các thầy hãy giữ gìn cẩn thận và làm mọi cách để bảo toàn thân mạng.

Vừa lúc ấy đại đức Sariputta trông thấy thanh gươm trên nền đất. Đại đức đưa mắt nhìn Bụt, không nói. Bụt gật đầu:

- Đúng như thế. Hồi hôm có anh lính được lệnh lên ám sát Như lai, nhưng đã được Như lai độ cho rồi. Thanh gươmg ấy cứ để đó, chừng nào cư sĩ Jivaka lên núi, Như lai sẽ nhờ cư sĩ đem xuống núi.

Đại đức Moggallana nhìn bạn:

- Bỏ Bụt mà đi lúc này, đệ không được an tâm lắm. Sư huynh nghĩ sao?

Sariputta chưa trả lời thì Bụt nói:

- Các thầy cứ an tâm mà đi, Như lai có đủ tỉnh thức để tránh được những tai họa có thể xảy tới.

Hai vị đại đệ tử sụp lạy thầy trước khi xuống núi.

Chiều hôm ấy có mấy vị khất sĩ từ tu viện Trúc Lâm lên thăm Bụt. Thấy Bụt họ không nói năng gì cả. Họ chỉ đứng ôm mặt khóc.

Bụt hỏi:

- Này các vị khất sĩ, tại sao các vị khóc?

Một vị khất sĩ lau nước mắt và trả lời Bụt:

- Thế Tôn, chúng con từ Trúc Lâm về, giữa đường chúng con gặp sư huynh Sariputta và Moggallana. Chúng con hỏi hai sư huynh đi đâu. Hai sư huynh nói là đi qua Gayasisa. Chúng con buồn quá nên chúng con khóc. Hơn năm trăm vị khất sĩ đã bỏ Bụt mà đi rồi, bây giờ hai vị đệ tử lớn nhất của Bụt mà cũng bỏ Bụt đi nữa thì chúng con không buồn sao được?

Bụt bật cười. Người an ủi các thầy khất sĩ:

- Này các vị, các vị đừng buồn nữa. Như lai biết là ở đâu, lúc nào, Sariputta và Moggallana cũng không phản bội Như lai đâu.

Nghe Bụt nói, các vị khất sĩ cảm thấy yên dạ hơn. Họ xin phép được ngồi im lặng một lát dưới chân Bụt.

Ngày hôm sau, Bụt được y sĩ Jivaka mời về tịnh xá riêng của ông trong vườn Xoài để thọ trai. Đại đức Ananda cùng đi với người.

Bụt và đại đức Ananda vừa thọ trai xong thì Jivaka thông báo có hoàng thái hậu Videhi đến thăm ông và vì nghe nói có Bụt ở đây nên thái hậu xin vào viếng người. Bụt biết cuộc viếng thăm này đã được y sĩ sắp đặt trước. Người cho mời thái hậu vào.

Lạy Bụt xong, thái hậu khóc nức nở.

Bụt để yên cho thái hậu khóc. Một hồi sau, người nói:

- Có chuyện gì xin thái hậu cho Như lai biết.

Thái hậu nói:

- Bạch Thế Tôn, tình trạng thượng hoàng rất nguy ngập. Ajatasattu quyết định bỏ đói thượng hoàng cho đến chết. Nó không cho con đem thức ăn vào cho thượng hoàng nữa.

Rồi bà kể cho Bụt nghe rằng mới hôm đầu tháng, bà còn được phép mang cơm vào cho thượng hoàng Bimbisara, nhưng sau đó mấy hôm, khi bà vào thăm thượng hoàng, quân lính chặn lại và lấy mất thức ăn. Bà vào thăm thượng hoàng mà chỉ biết ngồi khóc. Thượng hoàng an ủi ba, nói rằng người không oán giận Ajatasattu. Ngài nói ngài nhịn đói mà băng cũng được, miễn là nước nhà không bị nội chiến tàn phá. Sáng ngày hôm sau, bà dấu mấy vắt cơm nhỏ trong tóc của bà, và bà cũng mang trên tay ít thực phẩm để vào thăm thượng hoàng. Bọn lính canh chặn bà lại, lấy mất thức ăn trên tay bà nhưng không biết bà có dấu cơm trong mái tóc. Thượng hoàng đã ăn cơm ấy. Bà đã làm như thế được tám hôm. Thấy thượng hoàng không chết, Ajatasattu bắt quân lính khám xét bà rất kỹ. Chúng tìm thấy cơm trong tóc bà. Vậy là bà không thể đem cơm vào cho thượng hoàng được nữa.

Ba hôm sau bà nghĩ ra được một cách mới. Bà nấu một loại đề hồ gồm có sữa, mật ong và bột. Bà tắm gội sạch sẽ, lau mình thật khô rồi trát một lớp đề hồ lên thân thể, đợi cho ráo rồi mới mặc xiêm y. Quân canh không thấy có thức ăn và cơm dấu trong tóc, liền để cho bà vào. Vào tới nơi, bà cởi áo và bóc lớp đề hồ ra để thượng hoàng ăn tạm. Bà đã làm được hai lần như thế, nhưng bà rất sợ là trong một vài tuần, mưu của bà sẽ bị khám phá và bà sẽ không còn được phép vào thăm thượng hoàng nữa.

Kể tới đây, thái hậu lại ôm đầu khóc.

Bụt lặng thinh. Một lát sau, người hỏi về tình trạng sức khỏe của thượng hoàng, về thể chất cũng như về tinh thần. Thái hậu nói thượng hoàng đã ốm đi nhiều, nhưng vẫn còn khương kiện. Tinh thần thượng hoàng rất cao. Ngài không tỏ vẻ oán giận hay buồn rầu gì cả. Thì giờ trong tù, ngài dùng vào việc thiền tọa và thiền hành. Có một hành lang khá dài, ngài thường đi thiền hành dọc hành lang đó. Phòng giam ngài có một cánh cửa có chấn song. Từ khung cửa ấy ấy ngài có thể nhìn thấy núi Linh Thứu. Ngài ngồi trước cửa ấy để nhìn về núi Linh Thứu mỗi ngày, ngồi rất lâu. Ngồi thiền, thượng hoàng cũng ngồi ở đấy, mặt xoay về núi Linh Thứu.

Bụt hỏi thái hậu xem bà đã đưa tin về vua Pasenadi chưa. Bà nói là bà chưa có phương tiện, Bụt nói người sẽ nhờ một vị khất sĩ đưa tin về Savatthi giúp bà.

Thái hậu tạ ơn Bụt. Bà kể cho Bụt nghe là hồi Ajatasattu chưa sinh, các chiêm tinh gia đã đoán rằng Ajatasattu là người sẽ phản lại vua cha. Bà nói hồi bà có mang thái tử, một hôm không biết vì cớ gì mà bà rất thèm cắn vào bàn tay vua Bimbisara mà hút máu. Bà hoảng kinh, không ngờ rằng chính bà mà lại có được cái ý tưởng và cái thèm khát ghê tởm đó. Từ nhỏ đến lớn chưa bao giờ bà dám nhìn người ta giết một con gà hay một con cá, bà rất sợ khi thấy máu chảy, nhưng hôm ấy thật sự là bà muốn cắn tay vua để hút máu trong tay ngài. Bà chống trả lại sự thèm khát đó một cách tuyệt vọng. Cuối cùng bà ôm mặt khóc nức nở, và cảm thấy tủi hổ vô cùng. Một hôm khác trong bữa ăn, vua Bimbisara cầm dao gọt trái cây làm sao đó mà bị đứt tay, mấy giọt máu chảy ra, lập tức bà ôm ấy tay vua đưa miệng mút máu chỗ bị thương, Vua rất lấy làm lạ, nhưng vẫn để cho bà hút. Hút xong mấy giọt máu, bà nằm lăn khóc nức nở. Hoảng kinh, vua tới nâng bà dậy hỏi han. Bà phải nói cho vua nghe cái thèm muốn ghê gớm đó của bà. Bà đã chống trả một cách kịch liệt nhưng cuối cùng và đã bị thua. Bà biết cái thai trong bụng bà đã là nguyên nhân đưa đến cái thèm khát kỳ dị đó.

Các chiêm tinh gia được vua mời tới đều nói rằng đứa con trong bụng sau này sẽ làm hại vua và đề nghị nên tiêu diệt nó. Vua Bimbisara không chịu, bà cũng không chịu. Tuy nhiên khi sinh, thái tử đã được đặt tên là Ajatasattu. Tên này nghĩa là “kẻ thù không sinh ra”.

Bụt khuyên bà đừng nên vào thăm thượng hoàng mỗi ngày. Cứ hai hoặc ba ngày thì mới nên vào một lần để vua Ajatasattu khỏi nghi. Mỗi lần vào thăm như thế, bà có thể ở lại với vua thật lâu. Đề hồ bóc ra, nên để dành và ăn mỗi ngày ít thôi, đề phòng bị trường hợp thái hậu bị cấm vào thăm viếng.

Dặn dò thái hậu xong, Bụt từ giã Jivaka và trở về Thứu Lĩnh.




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/04/2013(Xem: 4732)
Còn trong tác phẩm Và khi tro bụi của nhà văn Đoàn Minh Phượng, người đọc không bước qua một cánh cửa, không đi theo một đường thẳng mà cứ bị dẫn dắt qua bao lối rẽ. Người đàn bà đi tìm cái chết, nhưng rồi cuối cùng chính chị phải tìm cách ngăn lại một cái chết khác. Mỗi người được sinh ra không phải để đi tìm cho mình một dấu chấm hết, mà là một mắt xích tạo nên dòng đời. Cho dù cuộc đời chỉ được ghi nhận bằng dòng chữ ngắn ngủi “Tôi là một đứa trẻ mồ côi....
10/04/2013(Xem: 13061)
Trên thế giới ngày nay, những sách vở nói về các vấn đề huyền linh có rất nhiều, sau khi sưu tầm sự thật về những bậc làm cho tôi cảm thấy khích lệ tinh thần để trình bày kinh nghiệm riêng của tôi về những đấng Chân Sư của Phương Đông. Trong những chương sách này, tôi không có ý diễn tả một tín ngưỡng hay một tôn giáo nào. Tôi chỉ đưa ra một tóm lược những kinh nghiệm cá nhân của mình về các đấng Chân Sư, để trình bày những chân lý căn bản trọng đại trong giáo lý của ngài.
10/04/2013(Xem: 9894)
Người du khách cuối cùng đã về; người hướng dẫn viên cuối cùng đã lập lại đến cả ngàn lần những điều hiểu biết của mình để giới thiệu cho du khách ngoại quốc về xứ cổ Ai Cập.
10/04/2013(Xem: 15281)
Theo truyền thuyết Ấn giáo, thần Vishnu có lần hoá sinh làm một vị vương tử sống bên bờ sông Hằng. Tên ông là Ravana. Ravana có một người con trai tên Dasa. Mẹ Dasa chết sớm, vương tử cưới một người vợ khác. Sau khi người đàn bà đẹp và tham vọng này sinh được một con trai, bà đâm ra thù ghét Dasa. Bà muốn cho Nala, con mình kế vị, nên âm mưu chia rẽ cha con Dasa, và chờ cơ hội thanh toán cậu bé.
10/04/2013(Xem: 15706)
Tập: Bàn về Tây Du Ký này viết sau khi đài truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh trình chiếu bộ phim "Tây Du Ký". Dương Khiết đạo diễn. Tập này được soạn giả xe là Hoa Ngọc lan, tập Ba; tiếp theo Hoa Ngọc Lan, tập Một, xuất bản năm 1998. Nhà Xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh; Hoa Ngọc Lan, tập Hai, xuất bản tháng 03 năm 2000, Nhà Xuất bản Tôn Giáo.
10/04/2013(Xem: 14490)
Điều nầy khiến người viết " Bàn về Tiểu Thuyết Kim Dung " đi tìm lại các cảm xúc của mình khi mải mê đọc võ hiệp Kim Dung vào thập niên 60, đặc biệt là cảm xúc về Phật học, về Văn hoá và Giáo dục. Người viết chỉ có một nguyện vọng khiêm tốn là nói lên một tiếng nói trân trọng về những gì tốt đẹp mà Kim Dung đã cống hiến cho độc giả bốn phương.
10/04/2013(Xem: 14866)
BẰNG TẤT CẢ TẤM LÒNG Thích Chân Tính Nhà Xuất Bản Thuận Hoá - Huế 1996
10/04/2013(Xem: 7744)
Quyển Hồi Ký này của tu sĩ Yogananda có một giá trị độc đáo vì nó là một trong những tác phẩm nói về các bậc thánh nhân, hiền triết Ấn Độ, không phải được viết ra bởi một ký giả hay văn sĩ ngoại quốc, mà bởi một tác giả nòi giống và cùng một nền giáo dục tâm linh với những người mà ông diễn tả. Nói tóm lại, đây là một quyển sách của một người Yogi viết về những người Yogi. Dưới hình thức một truyện trường thuật của một nhân vật tiết lộ cho chúng ta biết cuộc đời và những quyền năng lạ lùng của những bậc hiền giả của xứ Ấn. Quyển sách này có một tầm quan trọng rất lớn trong thời gian và ngoài không gian...
10/04/2013(Xem: 18996)
Ngài Triệu Châu hỏi ngài Nam Tuyền: Thế nào là đạo? Ðáp: Tâm bình thường là đạo. Một câu như thế đủ làm cửa ngỏ để chúng ta đọc tập sách này. Vì trong đây là những mẫu chuyện về các bậc cao tăng có đời sống khác lạ, . . .
10/04/2013(Xem: 14706)
Đọc “Câu chuyện dòng sông”, chúng ta sẽ thấy rằng cuộc đời đáng sống và chứa đựng muôn ngàn hương sắc tuyệt vời, mà chúng ta thường bỏ quên và đánh mất giữa đời sống thường nhật. “Câu chuyện dòng sông” là câu chuyện của mỗi người trong chúng ta; đó cũng là hình ảnh muôn thuở của trần gian và của mộng đời bất tuyệt.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]