Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 17: Chiếc lá pippala

13/01/201110:03(Xem: 10195)
Chương 17: Chiếc lá pippala

Đường xưa mây trắng
theo gót chân Bụt

Thích Nhất Hạnh
Lá Bối Xuất Bản lần 2, 1992, San Jose, Cali, USA

--- o0o ---

4.

Chương 17

CHIẾC LÁ PIPPALA

Ngồi dưới gốc cây Pippala, sa môn Gotama tập trung hết định lực và quán chiếu vào nội thân. Tinh lực của ông đầy dẫy và niệm lực của ông hùng hậu. Ông thấy cơ thể của ông như một dòng sông đang trôi chảy bất tuyệt và những tế bào trong cơ thể là những giọt nước xô đẩy nhau trên dòng sinh khởi, trưởng thành và biến diệt. Ông không tìm thấy một cái gì đồng nhất và bất biến có thể gọi là ngã cả. Xen lẫn trong trong dòng sông cơ thể ông nhận thấy có một dòng sông khác: đó là dòng sông cảm thọ, trong đó mỗi cảm giác là một giọt nước. Những giọt nước cảm giác này cũng xô đẩy nhau trong quá trình sinh khởi, trưởng thành và biến diệt của chúng. Có những cảm giác dễ chịu, có những cam giác khó chịu, có những cảm giác không dễ chịu cũng không khó chịu. Tự thân của những cảm giác cũng vô thường và luôn luôn sinh diệt giống như tự thân của các tế bào trong cơ thể. Với định lực vững chắc, sa môn Gotama khám phá ra dòng sông tri giác đang trôi chảy len lõi giữa các dòng sông cơ thể và dòng sông cảm giác. Những giọt nước trong dòng sông tri giác cũng xô đẩy nhau và ảnh hưởng lẫn nhau trên đà sinh trưởng và hoại diệt của chúng. Thế giới là thế giới của tri giác; tri giác chính xác thì thực tại hiển lộ, tri giác sai lầm thì thực tại chìm lặn. Tri giác sai lầm làm phát sinh bao nhiêu cảm giác khổ đau trong dòng sông cảm thọ. Con người sở dĩ lặn hụp trong khổ đau là vì nhận thức sai lầm của mình: vô thường thì cho là thường, vô ngã thì cho là ngã, không sinh diệt thì cho là có sinh diệt, cùng chung một tự tính mà lại cho là riêng lẻ tách biệt. Sa môn Gotama quán chiếu những hiện tượng tâm ý thường được xem là nguồn gốc của các cảm thọ khổ đau: những tâm lý sợ hãi, giận dữ, căm thù, kiêu mạn, ganh ghét, tham đắm và u mê. Chánh niệm bừng tỏ nơi ông như một mặt trời. Đem mặt trời chánh niệm ấy soi vào lòng của các hiện tượng tâm lý kia, ông thấy rằng bản chất của chúng đều là sự u mê. Tên nó là vô minh. Tên nó là mờ ám. Tên nó là sự thiếu sáng suốt. Chìa khóa của giải thoát vì vậy là sự đập tan u mê, là thể nhập vào lòng của thực tại để có một cái biết trực tiếp và chân thực về thực tại. Cái biết này không phải là cái biết của trí thức suy luận. Cái biết này là phải là cái biết trực tiếp của kinh nghiệm, của thực chứng. Ngày xưa, Siddhatta đã tìm đủ cách để chế ngự sợ hãi, chế ngự giận dữ, chế ngự tham đắm, nhưng những phương cách ấy không có hiệu quả, vì chúng chỉ là sự đè nén và đàn áp. Ngày nay Siddhatta biết được bản chất của chúng là u mê: giải tỏa u mê và đi tới sự hiểu biết, tức là làm cho chúng tự tan rã, như khi mặt trời lên thì tự khắc bóng tối tan biến. Sự hiểu biết này là kết quả của công trình quán chiếu. Giải thoát không phải là kết quả của một sự lẫn tránh thực tại, giải thoát trái lại là hiểu biết được tự thân của thực tại để đạt tới tự do, để cắt đứt mọi sợi dây khống chế.

Sa môn Gotama mỉm cưòi. Ông thấy một chiếc lá Pippala in trên nền trời xanh, đuôi lá hướng về phía đất và phe phẩy như đang gọi ông. Chiếc lá này một thực tại mầu nhiệm. Nhìn chiếc lá ông thấy mặt trời và trăng sao. Nếu không có mặt trời, nếu không có ánh sáng và sức nóng, chiếc lá không thể nào có mặt. Cái này có vì cái kia có. Ông lại thấy một đám mây bay lửng lơ trong lòng chiếc lá. Nếu không có đám mây thì không có mưa và nếu không có mưa thì không làm gì có chiếc lá. Ông thấy đại địa. Ông thấy thời gian. Ông thấy không gian. Ông thấy tâm thức. Tất cả đều đang có mặt trong chiếc lá. Vũ trụ có mặt trong chiếc lá và với chiếc lá. Điạ, thủy, hỏa, phong, không thời, phương, thức, tất cả đều có mặt với chiếc lá trong giờ phút này. Cái này có thì cái kia có, và ông thấy thực tại của chiếc lá cùng thực tại của bản thân ông là một. Chiếc lá dường như chỉ mới có mặt từ đầu mùa Xuân năm nay, nhưng thật ra chiếc lá đã có mặt không biết tự bao giờ. Trong ánh nắng đã có sẵn chiếc lá. Trong đám mây bay đã có sẵn chiếc lá. Trong cây đã có sẵn chiếc lá, và trong Siddhatta, đã có sẵn chiếc lá. Chiếc lá thực ra chưa từng bao giờ sinh, chiếc lá chỉ được biểu hiện ra mà thôi. Sa môn Siddhatta cũng chưa bao giờ từng sinh, sa môn Siddhatta cũng chỉ được hiểu hiện. Những ý niệm sinh diệt và con mất là những ý niệm phát xuất từ nhận thức sai lầm, từ vô minh. Tự thân của chiếc lá Pippala cũng như tự thân của sa môn Gotama chưa từng bao giờ sinh diệt. Sự có mặt của một hiện tượng kéo theo sự có mặt của tất cả mọi hiện tượng trong vũ trụ. Cái một bao hàm tất cả, và cái tất cả được có mặt trong cái một.

Chiếc lá không có cá thể biệt lập, không có một cái ngã thường tại bất biến. Sa môn Gotama cũng vậy, ông không thể có mặt biệt lập với vũ trụ vạn hữu, ông không có một cái ngã thường tại bất biến. Thấy được tính cách trùng trùng duyên khởi của vạn hữu cũng là đồng thời chứng nghiệm được sâu xa tính cách vô ngã của vạn hữu. Và vì vậy chìa khóa mở cánh cửa giải thoát là nguyên lý vô ngã, nguyên lý duyên sinh.

Một đám mây trắng bay qua, và chiếc lá Pippala giờ đây đang in hình trên nền trắng ấy. Đám mây kia chiều nay có thể sẽ gặp một luồng khí lạnh và sẽ biến thành mưa. Đám mây là một biểu hiện, mưa là một biểu hiện. Tự thân của đám mây không có sinh diệt và còn mất. Nếu đám mây biết điều đó thì khi cần được biến thành mưa, đám mây sẽ ca hát khi rơi xuống thành giọt trên núi rừng, trên ruộng lúa. Sa môn Gotama thấy được rằng trong thực tại, không có gì sinh ra, không có gì mất đi, không có gì từ không mà trở nên có, không có gì từ có mà trở nên không, và ông vượt thoát được các ý niệm có không và sinh diệt.

Sa môn Gotama lấy cái thấy này và soi chiếu lại vào những dòng sông cơ thể, cảm thọ, tri giác, tâm tư và nhận thức của con người. Ông thấy hầu hết những khổ đau của con người đều được phát xuất từ nhận thức sai lầm của con người. Nếu con người thấy được tính cách vô thường vô ngã của thực tại thì con người giải thoát được khổ đau. Vô thường và vô ngã là điều kiện tất yếu của sự sống; nếu không có vô thường và vô ngã thì không có biến chuyển sinh diệt, vì vậy không có gì có thể sinh trưởng và phát triển. Hạt lúa nếu không có vô thường và vô ngã thì không thể mọc thành cây lúa. Đám mây nếu không vô thường và vô ngã thì không thể nào biến thành cơn mưa. Em bé nếu không có vô thường và vô ngã thì không thể lớn lên. Vì vậy chấp nhận sự sống tức là chấp nhận vô thường và vô ngã. Khổ đau bắt nguồn từ sự nhận thức vô thường là thường, và vô ngã là là ngã. Chứng nhập được tự tánh vô thường và vô ngã của vạn hữu là thoát ra được vòng khổ đau.

Sa môn Gotama thấy rằng một khi đã chứng nhập được tự tánh vô thường và vô ngã của vạn hữu thì tự tánh khôngcủa vạn hữu cũng bắt đầu hiển lộ. Khôngtức là không sinh cũng không diệt, không có cũng không không, không một cũng không nhiều, không trong cũng không ngoài, không lớn cũng không nhỏ, không nhơ cũng không sạch ... Tất cả những ý niệm về không và có, sinh và diệt, một và nhiều, trong và ngoài, lớn và nhỏ, nhơ và sạch ... đều do những khuôn khổ hẹp hòi của tri giác tạo nên. Thâm nhập được vào thể tính không của vạn pháp, Siddhatta vượt lên trên của tất cả mọi phạm trù ấy của tri giác.

Đêm này qua đêm khác, sa môn Gotama ngồi thiền định dưới gốc cây Pippala, chiếu rọi ánh sáng của thiền định vào thân tâm và vào vũ trụ. Năm người bạn đồng tu của ông đã bỏ ông lâu rồi. Bạn tu của ông bây giờ là núi rừng, là dòng sông, là chim chóc, là hàng vạn côn trùng dưới dất trên cây. Bạn tu của ông là cây đại thọ Pippala. Bạn tu của ông còn là ngôi sao Hôm tỏa chiếu rạng rỡ vào ông lúc ông bắt đầu buổi thiền tọa tối. Đêm nào ông ngồi thiền định cho tới khuya. Bọn trẻ con trong xóm mỗi khi đem thức ăn cho ông thường chỉ ở lại một lát vào giờ trưa, giờ nóng bức nhất trong ngày.

Trưa hôm ấy, Sujata đem cúng dường ông một bát đề hồ nấu với sữa và mật ong. Svastika cũng đem đến tặng cho ông một mớ cỏ Kusa rất tươi để ông trải làm tọa cụ. Svastika lùa trâu đi rồi, ông có cảm tưởng là nội trong đêm nay, ông sẽ đạt tới được tận cùng của sự tỉnh thức mầu nhiệm. Vừa hồi khuya, ông mơ thấy những giác mơ rất lạ. Trước hết ông thấy ông nằm nghiêng, đầu gối lên dãy Hy Mã Lạp Sơn, tay trái để trên bờ biển phương Đông, tay phải đặt trên bờ biển phương Tây, và hai chân chấm bờ biển phương Nam. Trong giác mơ thứ hai ông thấy từ rốn mình mọc lên hoa sen lớn và hoa sen này nở lớn như một vành xe, dâng cao lên tận mây xanh. Trong giác mơ thứ ba ông thấy chim chóc đủ màu từ bốn phương bay tới quy tụ bên ông, không biết bao nhiêu mà kể. Những giấc mộng ấy như báo trước sự thành công của ông.

Chiều hôm ấy, sa môn Gotama đi thiền hành bên bờ sông, lội xuống sông tắm gội, rồi lại lên bờ sông đi thiền hành. Khi nắng bắt đầu tắt bên sông, ông trở lại với gốc cây Pippala quen thuộc. Nhìn gốc cây với tấm thảm cỏ mới trải, Siddhatta mỉm cười, Ngồi dưới cây này ông đã thực hiện được bao nhiều khám phá quan trọng. Ông biết giờ phút mà ông chờ đợi từ lâu đã sắp đến. Cánh cửa giác ngộ hoàn toàn sắp được tung mở.

Khoan thai, Siddhatta ngồi xuống và điều chỉnh thế ngồi trong tư thế hoa sen. Ông đưa mắt nhìn ra. Dưới kia dòng sông đang thầm lặng trôi. Những ngọn gió thật nhẹ đang lướt qua bờ cỏ. Rừng chiều vắng lặng nhưng sống động. Chung quanh ông có tiếng rì rào của muôn loại côn trùng. Ông nhiếp tâm theo dõi hơi thở và khép nhẹ đôi mi. Sao Hôm chắc đã lên rồi.





Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/09/2018(Xem: 8182)
Cực tịnh sanh động (Truyện tích của HT Thích Huyền Tôn kể, do Phật tử Quảng Tịnh diễn đọc) Cách đây 28 năm (1973), hồi đó tôi 16 tuổi (1945), nghe kinh Bát Nhã và pháp Bảo Đàn, bỗng nhiên lòng tôi không còn luyến tiếc gì bản thân và muốn xa lìa tất cả để lên non cao tu luyện. Tôi đem ý nguyện ấy thưa với Bổn sư là Hòa thượng Diệu Quang, Tổ thứ sáu của Tổ đình Thiên Ấn và là vị khai sơn chùa Viên Giác núi Thanh Thanh - nơi tôi đang tu học.
26/09/2018(Xem: 3758)
Một anh chàng thanh niên lái xe mô tô rất là tài giỏi. Không cờ bạc, không hút sách, không rượu chè, anh ta có một thú đam mê duy nhất : lái xe mô tô. Đúng là một đức tính rất tốt cho các luật lệ giao thông rất nghiêm khắt ở xứ sở Kangaroo này. Thế nên bao năm qua vượt nhanh cũng nhiều, lạng lách cũng lắm, chưa bao giờ anh gây ra tai nạn nào, mà cũng chưa hề một lần phạm luật bị phạt vi cảnh.
26/09/2018(Xem: 6956)
Truyện kể rằng, ngày xưa có gia đình ông Trương Công Nghệ, họ hàng sống với nhau chín đời : cố, ông, bà, con, cháu, chắt, chít ... tính sơ sơ trên dưới trăm người, lúc nào cũng rất mực yêu thương, rất mực thuận hòa, vui vẻ và êm ấm, chẳng bao giờ thấy họ gây gỗ, ganh đua hoặc lục đục chia lìa và xa cách nhau.
24/09/2018(Xem: 9367)
Audio Truyện Cổ Tích: Chín Mươi Ba Kiếp Mới Gặp Lại Con; Việt dịch: HT Thích Huyền Tôn; diễn đọc: TT Thích Nguyên Tạng -- Vào khoảng thời gian hai mươi năm sau Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni nhập diệt, Từ thành Tỳ-Xá-Ly hướng về phía Bắc Thành Ca-Tỳ-La-Vệ. Có một đoàn Tăng lữ gồm 17 vị, họ bước những bước chân nhịp nhàng và đều đặn, tuy không phát ra tiếng động của nhiều bàn chân cùng nện xuống mặt đất bột khô dưới sức nóng của mùa hè oi bức, nhưng không sao tránh khỏi lớp bụi bủn tung tỏa dưới sức dẫm của 34 cái bàn chân, tạo nên một đám mây cuồn cuộn; từ xa, tưởng chừng như các tiên nhân vừa từ trên không đằng vân vừa đáp xuống. Mây bụi vẫn cuộn trôi về phía sau lưng của họ, mặt trời càng rực đỏ và nghiêng hẳn về hướng tây, đến ngã rẽ, trước mặt họ là rừng cây khô trụi lá, một con quạ cô đơn ngoác mỏ kêu: Quạ! Quạ! Quạ!
11/09/2018(Xem: 3822)
Phía Bắc Trung Ấn Độ, vào thời cổ xưa, hơn 2000 năm, có một vị Thủ Tướng của nước Ba-la-nại, gia sản của ông rất là giàu có, quyền tước lớn, nhưng lòng ông luôn mang một nỗi niềm đau khổ. Vì, tuổi tác càng ngày càng già, tuy nhiều vợ, nhưng không một bà nào đem về cho ông một niềm vui mà ông mãi hoài mong thao thức, đó là một đứa con trai.
01/09/2018(Xem: 2988)
Có những niềm vui
24/08/2018(Xem: 5436)
Kịch : Tôn Giả Vô Não Biên soạn và đạo diễn: Trần Thị Nhật Hưng Hai màn Diễn viên: Sư phụ, sư mẫu,Vô Não và vai Đức Phật. Lời giới thiệu: Kính thưa Quí vị Là Phật tử, hẳn chúng ta đã từng nghe về nhân vật cắt 1000 ngón tay, xâu đeo vào cổ. Đó là chuyện tích Phật giáo nói về ngài Vô Não mà Đức Phật đã chuyển hóa thành một người tốt và trở thành đệ tử của Phật, về sau còn đắc quả A La Hán nữa. Hôm nay trên sân khấu này, chuyện tích đó sẽ được kể lại dưới ngòi bút của Trần Thị Nhật Hưng qua sự diễn xuất một cách sống thực của... Kính mời Quí vị theo dõi. Đây màn kịch Vô Não xin bắt đầu.
21/08/2018(Xem: 11430)
Mục Kiền Liên vốn xuất thân Con ông trưởng giả vô ngần giàu sang Ông cha tu rất đàng hoàng Nổi danh đạo đức xóm làng biết tên, Nhưng bà mẹ thời luân phiên Làm điều ác đức cho nên trong đời Gây nhiều nghiệp nặng tày trời Kiếp sau quả báo vào nơi đọa đày. Riêng Mục Liên nổi tiếng thay Thông minh, hiếu thảo lại đầy lòng nhân Can trường, cương nghị, lạc quan Thấy điều bất chính là can thiệp liền.
16/08/2018(Xem: 7845)
Trong nhiều bài kinh từ Hán tạng cho đến Pali tạng, Đức Phật tán thán hạnh hiếu dưỡng cha mẹ vì công ơn mang nặng đẻ đau và dưỡng dục của cha mẹ là vô ngần, không thể tính kể. Cho nên trong Tăng Chi Bộ, Thế Tôn gọi Cha Mẹ là Phạm Thiên, và những con cháu trong gia đình nào mà kính dưỡng cha mẹ được xem ngang bằng với Phạm Thiên: “Những gia đình nào, trong ấy các con cái kính lễ cha mẹ, những gia đình ấy được chấp nhận ngang bằng với Phạm Thiên, được chấp nhận là đáng được cúng dường”
13/08/2018(Xem: 6706)
Từ ngày vào chùa ở với sư cụ, chú Nhị Bảo ít khi được về thăm gia đình, mặc dù từ chùa về nhà không xa lắm, chỉ băng qua một cánh đồng, một khu rừng đầy thông reo là đến con đường lớn dẫn thẳng về nhà. Nếu đi bộ, chú phải mất hơn mấy tiếng đồng hồ. Công việc của chú hằng ngày tuy đơn giản nhưng thời khóa cũng khít khao. Sau những giờ hầu sư cụ, chú học kinh, viết chữ nho và thỉnh kệ chuông U Minh buổi tối. Mỗi ngày, chú còn phải đến lớp để tiếp tục chương trình phổ thông cơ sở. Chú học giỏi lại có hạnh kiểm tốt, đặc biệt gương mặt trong vắt ngây thơ và thánh thiện của chú khiến mọi người ai cũng mến yêu.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]