Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 1: Đi để mà đi

13/01/201109:40(Xem: 10563)
Chương 1: Đi để mà đi

Đường xưa mây trắng
theo gót chân Bụt

Thích Nhất Hạnh
Lá Bối Xuất Bản lần 2, 1992, San Jose, Cali, USA

--- o0o ---

1.

Chương 1

Đi để mà đi

Trong bóng me im mát vị khất sĩ Svastika đang thực tập phép quán niệm hơi thở. Chú ngồi trong tư thế hoa sen. Từ hơn một tiếng đồng hồ, chú đã ngồi thực tập như thế một cách chăm chú. Đó đây trong tu viện Trúc Lâm, hàng trăm vị khất sĩ cũng đang ngồi thực tập thiền quán, hoặc trong bóng tre, hoặc tron những chiếc am lá nhỏ đựng rải rác khắp nơi trong tu viện, xen lẫn giữa những bụi tre xanh tươi và khỏe mạnh.

Bụt hiện đang cư trú trong tu viện này cùng với khoảng gần bốn trăm vị khất sĩ học trò Người. Tu viện đông như thế mà vẫn thanh tinh. Đất của tu viện rộng đến bốn chục mẫu. Những giống tre trồng ở tu viện đều là những giống tre đẹp khỏe, lấy từ khắp nơ trong vương quốc Magadha. Tu viện tọa lạc ở phía bắc thành Vương Xá. Tu viện này do chính vua Bimbisara hiến tặng cho Bụt. và cho giáo đoàn khất sĩ của Người cách đây bảy năm.

Svastika mở mắt. Chú mỉm cười. Hai bắp chân chú đã moi. Chú tháo chân ra khỏi tư thế hoa sen và bắt đầu xoa bóp cho máu chạy đều trong hai chân.

Svastika năm nay mới hai mươi mốt tuổi. Chú chỉ mới được xuống tóc và thọ giới khất sĩ cách đây ba hôm. Thầy Sariputta một trong những vi cao đệ của Bụt đã làm lễ truyền giới cho chú.

Svastika quê ở Uruvela gần Gaya, chú được làm quen với Bụt ngay từ hồi Bụt chưa thành đạo, cách đây dúng mười năm. Hồi đó chú mới mười một tuổi. Bụt thương chú lắm, cách đây nửa tháng, Bụt ghé lại làng Uruvela tìm chú. Bụt đưa chú về đây, và Bụt đã bảo thầy Sariputta truyền giới khất sĩ cho chú.

Được chấp nhận vào giáo đoàn của Bụt, Svastika sung sướng lắm. Chú nghe nói trong giáo đoàn của Người có rất nhiều vị khất sĩ xuất thân từ giới quyền quý, như thầy Nanda. Thầy Nanda cũng là hoàng thái tử, em ruột của Bụt. Lại có những vị hoàng thân khác như Bhaddiya, Devadatta, Anuruddha và Ananda. Chú chưa đựơc trực tiếp chắp tay chào hỏi các vị này, tuy chú đã được trông thấy họ. Các vị này tuy đã đi tu, tuy đã khoác những chiếc áo cà sa bạc màu trên người nhưng dáng điệu vẫn còn mang tính cách thanh lịch và quý phái. Svastika có cảm tưởng là còn lâu lắm chú mới làm quen thân được với các vị. Bụt là một vị hoàng tử con vua thật đấy, nhưng Svastika không còn tìm thấy được sự ngăn cách nào giữa người và chú. Có lẽ vì chú quen với Bụt lâu rồi và ngày xưa đã từng ngồi với Bụt hàng giờ hoặc trên bờ sông Neranjara hoặc dưới cột bồ đề im mát. Chú thuộc về hạng những người cùng đinh, những người thấp kém và nghèo khổ nhất ở xứ chú. Chú đã làm nghề giữ trâu trên mười năm nay. Trong vòng nửa tháng vừa qua, chú đã chung đụng với những người tu thuộc giai cấp quý tộc. Những người này đều là khất sĩ và là học trò của Bụt. Tuy họ rất tử tế với chú, tuy họ đã nhìn chú với con mắt có cảm tình và nhiều khi đã mỉm cười với chú, nhưng chú vẫn chưa cảm thấy thật sự thỏai mái với họ. Chắc là tại chú chưa quen. Có lẽ phải sống với họ trong nhiều tháng nữa chú mới thực sự cảm thấy đây là thế giới của chú.

Nghĩ tới đây, Svastika lại mỉm cười. Ở đây ngoài Bụt ra, chú còn cảm thấy thoải mới với một người khác nữa. Đó là chú Rahula, con trai Bụt, Rahula năm nay mười tám tuổi, Rahula được theo Bụt tám năm rồi và trên đường tu học, Rahula đã bước được những bước thật dài. Hiện Rahula là bạn thân nhất của chú. Chính Rahula đã chỉ cho chú phương pháp quán niệm hơi thở. Rahula giỏi giáo lý và hành trì hơn chú nhiều nhưng sỡ dĩ Rahula chưa được thọ giứoi khất sĩ vì tuổi Rahula chưa đến hai mươi. Muốn được thành khất sĩ, muốn được thọ giới bhikkhu, nghĩa là giới khất sĩ thì ít nhất phải là hai mươi tuổi. Tháng trước khi Bụt ghé vào làng Uruvela tìm Svastika thì gặp lúc Svastika không có ở nhà, chú đang chăn trâu ngoài ruộng với đứa em trai tên là Rupka. Chỉ có hai đứa em giá của chú là ở nhà. Bala là chị Rupka năm nay lên mười sáu, còm Bhima là đứa em gái út năm nay mười hai tuổi. Bla nhận ra ngay được Bụt. Nó đòi ra bờ sông tìm anh những Bụt nói là để Bụt tự ý đi tìm. Rồi người rủ Rahula cùng đi. Hôm ấy đi với Bụt còn có hai mươi mấy vị khất sĩ nữa. Ai cũng theo Bụt đi ra bờ sông. Quả nhiên khi ra tới bờ sông thì Bụt gặp Svastika. Lúc ấy trời đã chiều, và Svastika đang cùng Rupka tắm cho đàn trâu. Đàn trâu của Svastika chăn có tới tám con trâu liứn và một con nghé. Hai anh em Svastika cũng nhận ra Bụt ngay tức khắc. Svastika cùng Rupka vội chạy đến chắp tay búp sen cúi đầu chào Bụt.

- Các con đã lớn quá, Bụt nhìn hai anh em và mỉm cười một cách thân ái. Svastika đứng ngây người ngắm Bụt. Vẫn khuôn mặt trầm tĩnh và hai con mắt sáng ngời ngày xưa. Vẫn nụ cười bao dung và hiền hậu đó. Vẫn những lọn tóc nhỏ xoắn hình ốc trên đầu. Bụt khoát một chiếc y màu chàm, do nhiều miếng vải may kết lại. Người vẫn còn đi chân đất như thuở nào, Svastika đưa mắt nhìn các vị xuất gia đứng sau lưng Bụt. Chú nhận thấy vị nào cũng đi chân trần như Bụt. Vị nào cũng quấn y màu chàm. Chú để ý thì thấy y của Bụt dài hơn các vị thầy khác độ một tấc. Đứng gần Bụt là một thầy rất trẻ, trạc tuổi Svastika. Vị thầy này cứ nhìn chú mà mỉm cười hoài. Bụt xoa đầu Svastika và Rupak. Người bảo người đang trên đường về thành Vương Xá, tiện đường chiều này ghé lại thăm mấy anh em. Người bảo người sẽ đứng trên bờ sông, đợi hai anh em xuống tắm trâu cho xong rồi sẽ cùng về nhà.

Trên đường về làng Bụt giới thiệu chú Rahula với hai anh em. Chú Rahula là vị xuất gia trẻ tuổi nhát hồi nãy trên bờ sông cứ đứng nhìn hai anh em Svastika mà cười hoài. Rahula thua Svastika ba tuổi nhưng cũng đã cao bắng Svastika. Rahula chưa thọ giới khất sĩ, nhưng đã thọ giới xuất gia làm s’ramanera, nghĩa là một vị sa di. Trông chú không khác gì những vị khất sĩ khác. Rahula đi giữa hai anh em. Chú trao chiếc bát cho Rupak giữ, và chú đặt tay trên vai hai người một cách thân ái. Chú đã từng được nghe Bụt nói chuyện về gia đình Svastika rồi, và chú có rất nhiều cảm tình với gia đình này. Cũng vì vậy nên hai anh em Svastika cảm nhận ngay được thân tình mà Rahula bộc lộ.

Về tới nhà, Bụt hỏi Svastika có muốn theo học với Bụt và gia nhập giáo đoàn khất sĩ không. Đây là một điều mà Svastika mong ước từ lâu. Mười năm trước, Svastika đã từng tỏ lộ ước mơ ấy với Bụt. Ngày ấy Bụt cũng đã hứa là sau này sẽ thừa nhận chú làm học trò xuất gia. Và bây giờ đây Người đã trở lại. Người đã không quên lời hứa. Các em của Svastika đã lớn cả rồi. Rupak em trai của Svastika đã có đủ khôn ngoan để một mình chăm sóc bầy trâu. Em gái lớn của Svastika là Bala cũng có đủ sức để làm một người nội trợ rồi.

Bụt ngồi ngoài sân, trên một chiếc ghế đẩu nhỏ. Tất cả các vị khất sĩ đều đứng sau lưng người. Nhà của mấy anh em Svastika là một túp lều lụp xụp, vách đất, làm gì có đủ chỗ để mời tất cả mọi người vào. Rupak đi lùa trâu về nhà ông chủ trâu cũng chưa về. Bala nói với Svastika:

- Anh cứ đi theo Bụt và các thầy đi. Tụi em ở nhà cũng đủ sức lo. Thằng Rupak nó mạnh lắm, mạnh hơn cả anh hồi xưa. Anh đi chăn trâu nuôi tụi em đã hơn mười năm rồi, không lý bây giờ tụi em không đủ sức để tự lo cho chính mình sao.

Ngồi bên lu nước, con Bhima ngửng lên nhìn chị, không nói năng gì, Svastika nhìn no. Con bé năm nay đã lớn. Hồi Svastika mới được gặp Bụt. Bhima còn chưa đầy tuổi thôi nôi. Bala hồi đó mới sáu tuổi, đã phải vừa ẳm em vừa nấu cơm. Rupak hồi đó mới có ba tuổi, cả ngày vọc đất vọc cát chơi ngoài sân. Cha chúng vừa mất được sáu tháng thì mẹ chúng cũng bỏ chúng, ngay sau khi sanh em Bhima. Svastika mười một tuổi mà đã phải làm chủ gia đình. May mắn mà nó được chăn trâu cho gia đình ông Rambhul trong xóm. Nhờ chăn trâu giỏi cho nên nó kiếm đủ thức ăn mỗi ngày cho chính nó và cho các em. Nó còn kiếm được cách xin sữa trâu cho bé Bhima nữa.

Bhima có khuôn mặt xinh xinh. Thấy anh nhìn mình như có ý dọ hỏi, Bhima mỉm cười. Nó ngần ngừ một lát rồi nói, giọng nhỏ nhẹ:

Bhima có khuôn mặt xinh xinh. Thấy anh nhìn mình như có ý dọ hỏi, Bhima mỉm cười. Nó ngần ngừ một lát rồi nói, giọng nhỏ nhẹ:

- Anh đi với Bụt đi. Nói xong Bhima quay mặt đi nơi khác, rơm rớm nước mắt. Bhima đã từng nghe anh nói về dự tính đi theo Bụt để tu học. Nó muốn anh nó được đi, nhưng nó lại buồn khi biết anh nó sắp đi.

- Vừa lúc ấy, Rupak về tới. Rupak nghe được câu nói của em. Nó hiểu tất cả. Nó nhìn Svastika, và nói:

- Anh cứ đi với Bụt đi.

Mọi người im lặng, Rupka nhìn Bụt nói:

- Bụt cho anh con được đi học với Bụt . Con ở nhà đủ sức lo cho chị và cho em con rồi.

Và quay sang Svastika, Rupak nháy mắt:

- Nhưng thỉnh thoảng anh phải xin phép Bụt về thăm tụi em.

Thế là vấn đề của Svastika được giải quyết. Bụt đứng dậy xoa đầu Bhima và nói:

- Các con đi ăn cơm và chuẩn bị đi nhé. Sáng mai, ta sẽ trở lại đây đón Svastika cùng lên đường đi Rajagaha. Bây giờ ta và các thầy khất sĩ sẽ đi về cây Bồ Đề và sẽ nghỉ đêm trong ấy.

Ra tới cổng, Bụt quay lại. Người nhìn Svastika và nói:

- Ngày mai, con không cần đem theo gì hết. Chỉ cần áo mặc trên người thôi, con nhé.

Đêm đó, bốn anh em thức khuya. Svastika dặn dò các em đủ điều. Svastika ôm từng đứa em trong vòng tay, thật lâu. Bé Bhima khóc thút thít trong tay anh. Nhưng bé lại ngửng lên nhìn anh và mỉm cười. Nó không muốn anh nó buồn. Ánh sáng chiếc đền dầu tuy tù mù nhưng vẫn soi rõ được nụ cười của bé. Tối hôm đó không ai nghĩ đến chuyện ăn cơm tối cả, dù Bala đã nấu cơm sẵn cho bốn anh em từ hồi xế chiều.

Sáng tinh sương hôm sau, khi Svastika vèa dậy thì đã thấy chị Sujata đến thăm. Chị đến để chào từ giã Svastika, bởi chiều hôm qua trên đường bờ sông chị đã được gặp Bụt và đã được Bụt báo tin cho biết là Svastika sẽ lên đường theo Bụt Chị Sujata là con gái của ông hương cả. Chị lớn hơn Svastika hai tuổi, ngày xưa, chị cũng đã được gặp Bụt hồi người chưa thành đạo, và chị cũng từng giúp mấy anh em Svastika nhiều lần trong nhưng cơn ốm đau hoạn nạn. Sujata đem đến tặng Svastika một lọ dầy, nói là để đánh gió những khi bị nhức đầu. Hai chị em mới nói được vài ba câu chuyện thì Bụt và các thầy tới. Các em của Svastika cũng đã dậy và sửa soạn để tiễn đưa anh. Chú Rahula đến ân cần hỏi thăm từng đứa em của Svastika. Chú hứa trong tương lai nếu có dịp đi ngang qua vùng Gaya thế nào chú cũng sẽ ghé thăm mấy đứa. Chị Sujata và ba đứa em của Svastika đưa Bụt và đoàn khất sĩ ra tới bờ sông. Đoàn người theo con đường ven sông để đi về phía Đông Bắc. Bốn chị em chắp tay chào Bụt, chào các thầy, chào chú Rahula và chào Svastika. Svastika thấy lòng nao nao. Đây là lần đầu tiên chú Svastika rời bỏ quê hương. Nghe nói phải đi đến mười hôm mới tới được thành Rajagaha. Bụt và các thầy khất sĩ đi thật khoan thai. Đi như thế này thì lâu đến là phải. Nhưng Svastika cũn châm bước lại. Bước chân Svastika cũng trở nên khoan thai. Lòng Svastika bây giờ bình yên hơ. Svastika đã một lòng quay về nương tựa Bụt, nương tựa Pháp và nương tựa Tăng. Svastika đã có đường đi của mình. Chú quay lại nhìn một lần chót. Bóng của chị Sujata và các em đã khuất sau rừng cây.

Svastika có cảm tưởng là Bụt đi để mà đi chứ không phải đi để mà tới. Đoàn khất sĩ đi theo nguời cũng vậy. Không ai tỏ vẻ nóng ruột hoặc hấp tấp muốn cho chóng tới Rajagaha. Mọi người bước những bước vững chắc, chậm rãi và thanh thản. Đi như là đi chơi. Không ai tỏ vẽ mỏi mệt. Vậy mà mỗi ngày đoàn người đi được rất xa. Cứ vào khoảng mười giờ sáng thì đoàn khất sĩ lại ghé vào một thôn xóm bên đường để khất thực. Họ đi thành một hàng. Bụt đi đầu, tay phải Người nâng bình bát, Svastika đi chót, ngay sau chú Rahula. Đoàn người trang nghiêm vừa đi vừa theo dõi hơi thở, mắt nhìn phía trước. Thỉnh thoảng đoàn người dừng lại. Có người trong xóm đem thức ăn ra cúng dường. Họ đứng nghiên mình đổ thức ăn vào trong bình bát của các vị khất sĩ. Có người quỳ xuống bên đường để dâng cúng thức ăn. Các vị khất sĩ sau khi nhận thức ăn thầm lặng hộ niệm cho người thí chủ.

Đoàn khất sĩ sau khi khất thực, từ từ đi ra khỏi thôn xóm và tìm tới dưới một khu rừng hay dưỡi một bãi cỏ. Họ ngồi xuống thành vòng tròn và chia xẻ thức ưn đã xin được cho những chiếc bình bát chưa có gì. Chú Rahula từ bờ sông đi lên mang theo một bình nước đầy. Chú cung kính mang bình nước tới trước mặt Bụt. Bụt chắp tai lại thành một búp sen. Chú đổ nước trên tay Bụt để Bụt rửa tay. Rồi chú đến trước các vị khất sĩ, cung kính đổ nước trên tay từng vị. Sau cùng chú đến đổ nước cho Svastika rửa tay. Sau đó mọi người chắp tay lại để quán niệm và chú nguyện. Rồi mọi người nâng bát lên ăn. Bữa ăn trang nghiêm và im lặng. Svastika chưa có bát. Chú Rahula đã chia thức ăn cho Svastika trên một tàu là chuối tươi.

Thọ trai xong, đoàn khất sĩ tìm nơi nghỉ trưa. Có vị tiếp tục đi thiền hành. Có vị ngồi thiền tọa dưới gốc cây. Khi nắng bắt đầu dịu xuống, mọi người lại lên đường. Đoàn người đi chó đến khi bóng chiều ngã thì mới tìm nơi tá túc. Chỏo nghỉ đêm tốt nhất của họ là một khu rừng thưa. Mọi người đều có mang theo tọa cụ. Họ ngồi xếp bằng trong tư thế hoa sen để thiền tọa dưới một gốc cây. Có vị thiền tọa đến quá nửa đêm mói ngả lưng xuống nghỉ trên áo ca sa xếp tư của mình. Các vị khất sĩ thường mang theo mình một chiếc y khác. Họ dùng y này để đắp khi trời trở lạnh. Svastika cũng bắt chước mọi người thiền tọa, và chú cũng học cách ngả lưng ngủ dưới một gốc cây, đầu chú gối trên một chiếc rễ cây.

Buổi sáng thức dậy, Svastika thấy Bụt đã dậy từ hồi nào và đang an nhiên ngồi tĩnh tọa. Dáng điệu của người trầm tĩnh và an lạc lạ thường. Nhìn quanh, Svastika thấy nhiều vị khất sĩ cũng đã dậy và đang thực tập thiền quán. Khi trời đã sáng rõ, mọi người lại xếp y, cầm bắt và chuẩn bị lên đường.

Ngày đi đêm nghỉ, như thế được mười hôm thì đoàn người tới thủ đô Vương Xá. Đây là lần đầu tiên trong đời Svastika thấy nhà cửa phố xá đông đúc như vậy. Xe ngựa rộn rịp. Tiếng cười tiếng nói vang vang. Tuy nhiên, đoàn khất sĩ vẫn đi khoan thai, nghiêm chỉnh và tịnh lạc như đi trên một bờ sông hoặc một con đường giữa hai cánh đồng lúa nơi thôn dã. Nhiều khách bộ hành dừng lại đẻ ngắm đoàn khất sĩ. Có người nhận ra được Bụt. Họ vội sụp xuống lạy một cách kính cẩn. Đoàn khất ĩ vẫn an nhiên đi. Rồi đoàn khất sĩ về tới tu viện Trúc Lâm.

Tin Bụt về tới Trúc Lâm phút chốc đã được truyền đi khắp tu viện. Chỉ trong chốc lát, gần bốn trăm vị khất sĩ cư trú tại Trúc Lâm đã tề tựu lại tịnh xá của người để thăm hỏi. Bụt không nói chuyện nhiều, người chỉ hỏi thăm mọi người về hiện trạng tu học và hành đạo tại Trúc Lâm và tại thành Vương Xá. Rồi người giao Svastika cho thầy Sariputta. Thầy Sariputta hiện là vị giáo thọ crua chú Rahula. Thầy cũng là vị giám viện của tu viện Trúc Lâm. Hiện thầy đáng hướng dẫn việc tu học cho gần năm trăm vị khất sĩ tân học, nghĩa là những vị khất sĩ trẻ mới được xuất gia trong vòng vài ba năm. Người đứng đầu tu viện là đại đức Kondanna.

Chú Rahula có phận sự chỉ dẫn cho Svastika về thể thức sinh hoạt hằng ngày trong tu viện: cách đi, cách ngồi, cách đứng, cách chào hỏi, cách htiền hanh, cách thiền tọa, và cách quán niệm hơi thở. Rahula cũng chỉ cho Svastika cách khoát y, mang bát, cách khất thực, chú nguyện rửa bát. Nội trong ba hôm, Svastika theo sát chú Rahula để học tất cả những thứ đó. Rahula chỉ dẫn rất tận tình, nhưng Svastika biết rằng để có thể làm được những việc này một cách ung dung và tự nhiên như chú Rahula, chú phải thực tập trong nhiều năm. Cuối cùng thầy Xá Lợi Phất gọi Svastika vào thảo am riêng của thầy. Thầy bảo Svastika ngồi xuống trên một chiếc ghế thấp bên cạnh thầy và bắt đầu giảng cho Svastika về giới luật của người khất sĩ.

Khất sĩ là người từ bỏ đời sống gia đình, nương vào Bụt như người đưa đường chỉ lối cho ình trong cuộc đời, nương vào Pháp như con đường đưa tới sự thành tựu đạo nghiệp giải thoát và nương vào Tăng như đoàn thể của những người cungà đi trên một con đường chí hướng. Người khất sĩ phải sống đời đạm bạc và khiêm nhượng. Đi khất thực là để thực hiện tinh thần ấy mà cũng là để có cơ hội tiếp xúc với dân chúng và hướng dẫn mị ngườivào con đường của hiểu biết và của thương yêu mà Bụt chỉ dạy.

Mười năm về trước dưới cây Bồ Đề, Svastika và các bạn đã từng được nghe Bụt nói về đạo giải thoát như con đường của hiểu biết và thương yêu, nên bây giờ chú hiểu rất chóng những điều mà thầy Sariputta đang giảng dạy. Nét mặt của thầy nghiêm trang, nhưng hai mắt và nụ cười của thầy bộc lộ rất nhiều từ ái. Thầy nói sáng ngày mai Svastika sẽ được làm lễ thế phát xuất gia để được gia nhập vào giáo đoàn khất sĩ. Và thầy dạy cho Svastika học thuộ những câu nói và chú phải nói trong lễ thọ giới.

Trong lễ thọ giới của Svastika, chính thầy Sariputta là giới sư truyền giới. Chỉ có khoảng trên hai mươi vị khất sĩ tham dự. Bụt cũng đến tham dữ lễ truyền giới này. Rahula cũng có mặt. Svastika rất sung sướng. Thầy Sariputta làm lễ xuống tóc cho Svastika. Tay cầm dao cạo, thầy im lặng một lát để chú nguyện rồi đưa dao cạo một vài đường tóc trên đầu Svastika. Sau đó Rahula nhận trách nhiệm hoàn tất việc cạo đầu cho vị giới tử mới. Svastika được thầy Sariputta trao cho ba chiếc y, một chiếc bình bát và một dụng cụ lọc nước. Đã học cách quấn y với Rahula rồi nên chú mặt y vào người một cách tự nhiên và mau chóng. Chú sụp lạy trước Bụt và đoàn thể các vị khất sĩ để biểu lộ niềm quy kính và lòng biết ơn của chú.

Ngay sáng ngày hôm ấy Svastika được tập sự đi khất thực. Chú đã là một bhikkhu. Quấn y, mang bát, chú gia nhập vào đoàn của vị y chỉ sư của mình, tức là thầy Sariputta. Rahula là thị giả của thầy Sariputta nên cũng có trong đoàn của chú. Mấy trăm vị khất sĩ trong tu viện Trúc Lâm chia nhau thành nhiều đoàn, mỗi đoàn tìm đi khất thực trong một con đường khác nhau của thành Vương Xá. Hôm ấy Bụt không đi trong đoàn của Svastika.

Vừa bước ra khỏi tu viện, Svastika thấy ngay rằng đi hóa trai là một phương thức hành đạo. Lập tức chú trở về theo dõi hơi thở. Chú bước từng bước đoan nghiêm, đôi mắt nhìn thẳng về phía trước. Chú Rahula hiện đi ngay phía sau chú. Tuy Svastika có ý thức rằng mình là một vị khất sĩ thực thụ, chú cũng biết rất rõ là kinh nghiệm tu học của chú còn kém xa kinh nghiệm tu học của Rahula. Và chú thường nguyện nuôi dưỡng đức khiêm cung nơi chú

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/01/2018(Xem: 4428)
40 Năm Ở Mỹ, sách của TT Thích Từ Lực
11/01/2018(Xem: 5081)
Vào những năm đầu của thập niên 2000, khi cây bút đang còn sung sức, tôi viết rất nhiều bài về danh lam thắng cảnh trên quê hương Nha Trang của mình để giới thiệu trên các báo và tạp chí khắp đất nước. Trong số đó, hiển nhiên là có bài viết về ngôi chùa đã lưu nhiều hình ảnh, dấu ấn kỷ niệm vào ký ức tuổi thơ của tôi với tên gọi thân quen mộc mạc: “Chùa Núi Sinh Trung”.
08/01/2018(Xem: 11172)
Hồi còn tại thế xưa kia Trên đường giáo hóa Phật đi qua làng Ngài đi cùng ông A Nan Khai tâm gieo ánh đạo vàng giúp dân. Đang đi ngài bỗng dừng chân Bước quanh lối khác có phần xa thêm Ông A Nan rất ngạc nhiên Vội lên tiếng hỏi. Phật liền giảng ra: "Này A Nan phía trước ta Có quân giặc cướp thật là hiểm nguy Sau ta ba kẻ đang đi Gặp quân giặc đó khó bề thoát qua!"
08/01/2018(Xem: 9346)
Ở bên Ấn Độ thuở xưa Nơi thành Xá Vệ, buổi trưa một ngày Gia đình kia thật duyên may Phật thương hóa độ, dừng ngay tại nhà, Tiếc thay chồng vợ tỏ ra Tham lam, độc ác, xấu xa, hung tàn. Hóa thành một vị đạo nhân Phật đi khất thực dừng chân trước thềm Ôm bình bát, đứng trang nghiêm, Anh chồng đi vắng, vợ liền nhảy ra Tay xua đuổi, miệng hét la
07/01/2018(Xem: 7741)
Sau mỗi lần có dịp viếng thăm các chứng tích như tượng đài, lăng mộ, viện bảo tàng, nhà lưu niệm, ..., của những nhân vật mà cuộc đời phần nào liên quan đến đời sống vật chất hay tinh thần, sự thịnh suy ,... của một nhóm người, một dân tộc, một vùng, một quốc gia,..., tôi ra về lòng những bâng khuâng với hai câu : Những người muôn năm cũ Hồn ở đâu bây giờ ? trong bài thơ Ông Đồ của nhà thơ Vũ Đình Liên.
21/12/2017(Xem: 3762)
Anh sinh ra và lớn lên ở miền gió cát khô nóng Phan Rang. Là một Phật tử thuần thành, lại được phước báu khi có đến hai người con trai xuất gia, nên nhân duyên đưa đẩy đã trở thành đạo hữu của tôi qua nhiều lần hội ngộ lạ lùng ở các thiền viện thuộc dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử. Kết tình đạo hữu với nhau đã gần mười năm rồi, mỗi lần gặp mặt, tôi và anh đều tay bắt mặt mừng, trò chuyện thân mật, nhưng người huyên thiên lúc đàm đạo là anh, còn tôi thì cứ chỉ biết gật gù, mỉm cười, họa hoằn lắm mới buông một đôi câu phụ họa. Anh quý mến tôi ở điểm đó.
15/12/2017(Xem: 6275)
Hương Lúa Chùa Quê" Bản Tình Ca Quê Hương của nhị vị Hòa Thượng Thích Bảo Lạc và Thích Như Điển. Sau khi đọc tác phẩm “Hương Lúa Chùa Quê” chúng con không dám mong ước giới thiệu sự nghiệp văn học, văn hóa cả đạo lẫn đời của nhị vị Hòa Thượng. Vì công trình tạo dựng sự nghiệp của các bậc xuất sĩ không nằm trong “nguồn văn chương sáng tác”. Vì xuyên qua mấy chục năm hành đạo và giúp đời, nhị vị đã xây dựng nhiều cơ sở Phật giáo đồ sộ trên nhiều quốc độ khác nhau như: chùa Pháp Bảo tại nước Úc; chùa Viên Giác và Tu viện Viên Đức tại nước Đức. Nhị vị cũng đã mang ánh Đạo vàng đến khắp muôn nơi, soi sáng cho bước chân “người cùng tử” được trở về dưới mái nhà xưa, để thấy lại “bóng hình chân nguyên”; dẫn đường cho những người chưa thể “tự mình thắp đuốc lên mà đi” được tìm lại “bản lai diện mục”. Đó mới gọi là “sự nghiệp” của bậc xuât sĩ. Điều nầy đã có lịch sử ghi nhận từ mạch nguồn công đức biểu hiện và lưu truyền.
15/12/2017(Xem: 86883)
Trải hơn 25 thế kỷ, Chánh Pháp của Phật vẫn được tuyên dương và lưu truyền bởi hàng đệ tử xuất gia lẫn tại gia, đem lại giải thoát và giác ngộ cho những ai học hỏi và thực hành đúng đắn. Chánh Pháp ấy là thuốc hay, nhưng bệnh mà không uống thì chẳng phải là lỗi của thuốc. Trong kinh Di Giáo, đức Phật cũng ân cần huấn thị lần chót bằng những lời cảm động như sau: “Thể hiện lòng đại bi, Như Lai đã nói Chánh Pháp ích lợi một cách cứu cánh. Các thầy chỉ còn nỗ lực mà thực hành… Hãy tự cố gắng một cách thường trực, tinh tiến mà tu tập, đừng để đời mình trôi qua một cách vô ích, và sau này sẽ phải lo sợ hối hận.” Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người. Ước mong giáo pháp của Phật sẽ được lưu chuyển qua những trang báo nhỏ này, mỗi người sẽ tùy theo căn tánh và nhân duyên mà tiếp nhận hương vị.
29/11/2017(Xem: 6598)
Trong loạt bài Kể Chuyện Đường Xa lần này, người viết đặt thêm tên cho mục này Vòng Quanh Thế Giới, để có cùng tên với loạt phóng sự sẽ đưa lên tvtsonline.com.au với nhạc hiệu mở đầu của bài “Vòng quanh thế giới” người viết sáng tác gần bốn thập niên trước đây. Từ năm 1990, chúng tôi đã bắt đầu viết bút ký với chuyến đi Bangkok (Thái Lan) và loạt bài cuối cùng là chuyến du lịch Âu Châu vào năm 2015.
27/11/2017(Xem: 4822)
Nếu chấp nhận thuyết nhân duyên của Đạo Phật thì có thể dễ dàng, giải thích cho mọi tình huống và mọi sự việc xảy ra trong cuộc đời nầy. Nhân duyên hay duyên sanh cũng tương tự với nhau. Đó là: „Cái nầy có cho nên cái kia có; cái nầy sanh cho nên cái kia sanh. Cái nầy diệt, cho nên cái kia cũng diệt theo“. Không ai trong chúng ta có thể biết trước được việc gì sẽ xảy đến cho mình về sau nầy cả; dầu cho chúng ta có cố gắng làm mọi việc tốt đẹp trong hiện tại; nhưng dư báo trong quá khứ, ai biết được thiện, ác còn lại bao nhiêu mà lường được. Chỉ khi nào nắp quan tài đậy lại trong kiếp nầy, thì lúc ấy ta mới biết được cái quả trong hiện tại là cái nhân như thế nào mà trong quá khứ của chúng ta đã gây ra và chính cái quả của ngày hôm nay sẽ là cái nhân cho ngày sau nữa.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]