Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Rồng trong kinh điển Phật giáo

18/01/201206:10(Xem: 12519)
Rồng trong kinh điển Phật giáo

Theo truyền thuyết, rồng là loài vật linhthiêng, có thần thông, có khả năng làm mưa, phun ra khói, lửa, thăng, giáng,ẩn, hiện, biến hóa lớn nhỏ một cách tự tại. Kinh điển Phật giáo có nhiều huyềnthoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắmcho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật, Phật hàng phục hỏa long,Long vương nghe kinh Thập thiện, Long nữ thành Phật…

Rồng trongsự kiện đản sinh

Theo kinh Quá khứ hiện tại nhân quả, khi thái tửTất đạt đa ra đời có Tứ thiên vương dùng lụa quý của cõi trời đỡ, Trời Đại Phạmthiên và Trời Đế Thích cầm lọng báu đứng hầu hai bên. Lúc này trên không trungcó hai vị Long vương phun hai dòng nước ấm và mát tắm cho thái tử. Kinh chépnhư sau: “…Lúc mặt trời vừa mọc, bà (hòang hậu Ma Da) thấy trong vườn có mộtcây lớn tên là Vô Ưu, sắc hoa rực rỡ, mùi hương thơm ngát, cành lá bủa rất rộngrất đẹp, liền với tay phải muốn hái hoa kia. Ngay khi đó, Bồ tát từ hông phảibước ra.

IMG_4905.JPG

Tượng Đức Phật sơ sinh (chín rồng phun nước tắm ngài)

Lúc ấy, nơi gốc cây cũng hiện ra bảy hoa sen bảy báu (thất bảo) lớnnhư bánh xe. Bồ tát đứng trên hoa sen không cần người đỡ, tự đi bảy bước, đưacánh tay phải lên, cất giọng như sư tử rống: “Trong tất cả trời người, ta làbậc tôn quý nhất; vô lượng sinh tử, hôm nay đã chấm dứt. Đời này ta sẽ làm lợiích cho tất cả chúng sinh”. Vừa nói xong, bốn vị Thiên vương lấy lụa trời đỡlấy Thái tử, đặt trên ghế báu, Thích Đề Hoàn Nhơn và Đại Phạm Thiên Vương taycầm bảo cái đứng hầu hai bên, Long vương Nan Đà, Long vương Ưu Ba Nan Đà ở trênhư không phun một dòng nước ấm, một dòng nước mát trong sạch tắm cho Thái tử.Thân Thái tử màu vàng ròng, có 32 tướng tốt, phóng ánh sáng rực rỡ chiếu khắpba ngàn đại thiên thế giới. Tám bộ Trời, Rồng ở trên hư không trỗi các kỹ nhạc,ca tụng khen ngợi, đốt các hương thơm, rải nhiều hoa báu, tuôn xuống như mưacác lọai y trời và anh lạc rực rỡ, không thể tính kể”.

Trong kinh Đại Bổn và Vị tằng hữu pháp cũng cónói: Khi thái tử ra đời, thân không dính một chất dơ nào từ lòng mẹ, có bốnThiên tử đỡ rồi đặt trước Hòang hậu và thưa: “Hòang hậu hãy hoan hỷ. Hòang hậuvừa sinh một bậc vĩ nhân”. Từ hư không có một dòng nước ấm và một dòng nước máttắm gội cho thái tử.

Còn trong kinh Phổ Diệu ghi rằng, lúc Thái tử đảnsinh có chín con rồng từ trên hư không phun nước xuống tắm cho thái tử. Chín vìhuyền thọai chín rồng phun nước mà sau này có câu kệ tán dương Đức Phật như sau:“Ngọc chất giáng hoàng cung, cửu long phún thủy tề mộc dục” (Bản chất thanhtịnh, trong sạch, quý báu như ngọc giáng sinh ở chốn hòang cung, chín rồng phunnước đồng tắm cho thái tử).

Rồng chemưa cho Đức Phật

Theo Đại Phẩm của Luật tạng, vào tuần lễ thứ basau khi thành đạo, khi Đức Phật ngồi thiền định dưới gốc cây Mucalinda thì mưato gió lớn nổi lên, một con rắn mãng xà đến quấn quanh mình Ngài và cất cao đầulên che mưa cho Ngài. Trong Đức Phật và Phật pháp của Ngài Nàrada Mahà Thera(Phạm Kim Khánh dịch) ghi sự kiện này xảy ra vào tuần thứ sáu sau khi Phậtthành đạo, thời gian Đức Phật chứng nghiệm hạnh phúc giải thoát. Trận mưa bãokéo dài suốt bảy ngày mới chấm dứt. Khi trời quang mây tạnh, con mãng xà tháomình trở ra và hóa hiện thành một thanh niên chắp tay đứng trước Đức Phật. ĐứcPhật đã nói cho người thanh niên nghe một bài kệ có nội dung như sau: “Đối vớihạng người tri túc, đối với người đã nghe và đã thấy chân lý thì sống ẩn dật làhạnh phúc. Trên thế gian, người có tâm lành, có thiện chí, người biết tự kiềmchế, thu thúc lục căn đối với tất cả chúng sinh là hạnh phúc. Không luyến áingười, vượt lên khỏi dục vọng là hạnh phúc. Phá tan được ngã chấp quả thật làhạnh phúc tối thượng”.

2.JPG

Tượng Đức Phật thiền định có rồng che mưa nắng (Bồ Đề Đạo Tràng, Ấn Độ)

Câu chuyện rắn thần che mưa cho Đức Phật khitruyền sang Trung Hoa đã chuyển thành câu chuyện rồng thần che mưa cho ĐứcPhật. Chính vì thế mà trong nhiều chùa có tranh ảnh, phù điêu khắc họa hình ảnhĐức Phật ngồi nhập định dưới gốc cây giữa trời mưa to gió lớn, có rồng thầnquấn quanh mình và cất cao đầu che mưa cho Ngài. Trong các huyền thoại về ĐứcPhật được ghi lại trong kinh điển, sau khi lưu truyền qua các nước Trung Hoa,Việt Nam...,hình ảnh rồng thần được thay cho hình ảnh rắn thần. Cũng như trong sự kiện trên(Rắn thần che mưa cho Đức Phật), trong sự kiện Đức Phật hàng phục độc xà (sẽnói ở phần sau), các kinh điển Bắctruyền ghi lại hình ảnh một con hỏa long (rồng lửa) thay vì là một con rắn độc.Đối với người Ấn Độ thì rắn là con vật thiêng liêng trong khi ở các nước TrungHoa, Việt Namthì rồng là linh vật.

Phật hàngphục hỏa long

Trong kinh Quá khứ hiện tại nhân quả có thuậtlại rằng: Đức Phật muốn hóa độ ba anh em ông Ưu lâu tần loa Ca diếp và các đệtử của họ, bèn đi đến bờ sông Hằng, nơi họ và các đệ tử trú ngụ.

Khi Đức Phật đến nơi thì trời đã tối, Ngài bènhỏi ông Ca diếp: “Tôi đi lỡ đường, xin ông cho tôi nghỉ nhờ một đêm”. Ông Cadiếp từ chối: “Rất tiếc, ở đây đồ chúng quá đông, không có chỗ nào để mời Ngàinghỉ lại”. Đức Phật nói: “Chỗ nào cũng được. Tôi chỉ xin nghỉ nhờ một đêmthôi”. Ông Ca diếp bèn chỉ về phía một hang động gần đó rồi bảo: “Nơi kia cóthể nghỉ tạm được. Tiếc rằng trong đó có một con hỏa long rất dữ, người lạ vàoe bị nó làm hại”. Đức Phật nói: “Không sao đâu. “Ngã nội thanh tịnh, ngoại taibất nhập” (Bên trong ta thanh tịnh, tai họa bên ngoài không xâm hại được. Xinông vui lòng để tôi ở lại nơi đó”.

3.jpg

Đức Phật vào trong hang động, hỏa long nghe hơilạ bèn bay ra, phun khói độc vào Ngài. Nhưng khi khói độc gần đến chỗ Phật thìbay ngược trở lại. Hỏa long bèn phun lửa, nhưng khi lửa gần đến chỗ Phật thìcháy ngược trở lại hỏa long. Đức Phật bèn nhập định Hỏa quang tam muội hóa lửacháy sáng cả hang động, lửa của hỏa long bị đẩy lùi. Đức Phật từ bi bảo với nó:“Ngươi đã thấy phép thuật của ngươi còn thấp kém chưa?” Đức Phật bèn đưa bình bát ra và nói: “Ngươihãy vào đây để tránh lửa”. Hỏa long vội thu mình bay vào trong bát của ĐứcPhật.

Về sau, ba anh em ông Ca diếp và các đồ chúngnhận thấy thần lực và đức độ của Đức Phật không ai sánh bằng, họ đã xin quy ytheo Phật.

Long nữthành Phật

Trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa, phẩm thứ 12 Đề BàĐạt Đa có nói sự kiện Long nữ, con gái Long vương thành Phật như sau:

“Lúc bấy giờ, Bồ tát Trí Tích, thị giả của PhậtĐa Bảo bạch xin phép Phật Đa Bảo trở về nước. Đức Phật Thích Ca mới bảo Bồ tátTrí Tích: “Thiện nam tử, hãy chờ giây lát. Ở đây có Bồ tát Văn Thù, ông và VănThù có thể cùng nhau ra mắt mà luận nói pháp mầu, xong rồi sẽ về”.

Ngay khi ấy, Bồ tát Văn Thù và các Bồ tát tùytùng ngồi trên hoa sen lớn, từ nơi cung Rồng (Long cung) Ta kiệt la trong biểnlớn bay lên hư không, rồi bay đến núi Linh Thứu, từ hoa sen bước xuống, đảnh lễPhật Đa Bảo và Phật Thích Ca, kế đến hỏi thăm Bồ tát Trí Tích, sau đó ngồi quamột bên.

Bồ tát Trí Tích bèn hỏi Bồ tát Văn Thù: “Ngàiqua cung Rồng hóa độ được bao nhiêu chúng sinh?” Bồ tát Văn Thù đáp: “Vô lượng.Nếu Ngài không tin, sẽ tự chứng biết”.

Bồ tát Văn Thù nói chưa dứt lời thì có vô số Bồtát ngồi hoa sen từ biển bay lên đến núi Linh Thứu, trụ trên hư không, tất cảđều do Bồ tát Văn Thù hóa độ. Bồ tát Văn Thù nói: “Ở biển, ta thường tuyênthuyết kinh Diệu Pháp”. Bồ tát Trí Tích hỏi: “Kinh này rất thâm diệu. Vậy cóchúng sinh nào siêng tu theo kinh này mà mau thành Phật không?” Bồ tát Văn Thùđáp: “Có con gái của Long vương, mới lên tám tuổi mà đầy đủ trí đức, trongkhỏanh khắc phát Bồ đề tâm, được bậc bất thối chuyển, biện tài vô ngại, từ birộng lớn, công đức đầy đủ, có khả năng đến Bồ đề”.

Bồ tát Trí Tích không tin hỏi: “Chính Đức PhậtThích Ca còn phải trải qua vô lượng kiếp tu tạo nhiều công đức, làm những hạnhkhó làm mới thành đạo Bồ đề, làm sao tin được Long nữ trong chốc lát mà chứng thànhChánh giác”.

Đàm luận chưa xong, Long nữ bỗng hiện ra, cungkính đảnh lễ Phật rồi đứng qua một bên, nói kệ xưng tán pháp thân và cho biếtnhờ nghe được diệu pháp mà nàng đã thành Bồ đề, nhưng việc này chỉ Phật chứngbiết mà thôi.

Bấy giờ Tôn giả Xá Lợi Phất nói với Long nữ:“Thân gái nhơ uế, có năm điều chướng ngại, còn con đường Phật đạo xa diệu vợi,phải trải qua vô lượng kiếp cần khổ mới đi hết, mà ngươi nói tu không bao lâuđã chứng được vô thượng Chánh giác. Làm sao tin được?” Long nữ bèn lấy một hạtchâu hiến dâng Đức Phật Thích Ca, Đức Phật thọ nhận. Bấy giờ Long nữ hỏi Bồ tátTrí Tích: “Tôi hiến châu, Thế Tôn nhận lấy, việc ấy có mau chăng?” Bồ tát TríTích đáp: “Mau”. Bấy giờ Long nữ nói: “Ông hãy lấy thần lực của ông xem đây,tôi thành Phật còn mau hơn việc đó”.

4.jpg

Chúng hội liền thấy Long nữ thoạt nhiên biếnthành nam tử, đủ hạnh Bồ tát, qua cõi Vô cấu phương nam, ngồi hoa sen báu, thànhbậc Đẳng Chánh giác”.

Câu chuyện Long nữ thành Phật có ý nghĩa caosâu: Tất cả chúng sinh đều có Phật tính, dù là loài nào, nam, nữ, già, trẻ, bé,lớn đều có khả năng thành Phật nếu như đầy đủ trí tuệ và công đức phước báu, tuhành không thối chuyển, có tâm từ bi rộng lớn, có vô ngại biện tài. Cũng nhưLong nữ vốn là loài rồng (súc sinh), lại mang thân nữ, chỉ mới tám tuổi thôi,nhưng nhờ tu tập, tích chứa công đức phước báu, có tâm tánh, ý chí của bậc namnhi trượng phu quân tử (Long nữ biến thành thân nam), hội đủ điều kiện nhânduyên (thành tựu Lục độ vạn hạnh, chứng đạt tâm thanh tịnh, sạch vô minh phiền não(qua cõi Vô cấu) mà Long nữ đã thành bậc Đẳng Chánh giác.

Theo kinh điển Phật giáo, Rồng là một trong Tám bộchúng thường theo ủng hộ Phật pháp (Thiên long bát bộ): Thiên (Trời), Long(Rồng), Dạ xoa (Thần Dạ xoa, quỷ Dạ xoa), Kiền thát bà (Thần âm nhạc ở cõitrời, thường tấu thiên nhạc hầu vua trời Đế Thích), A tu la (Phi thiên, cácchúng sinh này có phước báu như chư thiên nhưng kém đức, tâm thường sân hận vàưa tranh đấu), Ca lâu la (Kim sí điểu, loài chim cánh vàng), Khẩn na la (Nhơnphi nhơn, hình dáng giống con người nhưng chẳng phải người, là vị thần đánhpháp nhạc cho trời Đế Thích nghe), Ma hầu la già (Thần mình người đầu rắn, bụngto). Trong các thời pháp của Đức Phật đều có sự tham dự của hàng Thiên long bátbộ.
Phan Minh Đức
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/09/2016(Xem: 5689)
Vào cuối đời Tây Tấn, vua Huệ Đế ngu tối, việc triều chính đều do hoàng hậu Giả thị chủ trương. Giả hậu là người nham hiểm, lại biết quyền biến đởm lược, mưu giết các thân vương, phế bỏ Thái tử. Triệu Vương Luân bèn phẫn uất, cử binh giết Giả hậu, truất phế vua Huệ Đế mà tự xưng lên làm vua. Các thân vương khác thấy vậy cũng dấy binh tranh giành lẫn nhau, cốt nhục tương tàn, làm cho nhà Tấn suy yếu.
22/08/2016(Xem: 4624)
Sáng hôm nay trong thinh lặng của một sáng chủ nhật mùa đông, tôi muốn dành tâm trí thảnh thơi để viết vài hàng trả nợ cho cô bạn tí hon ngày xưa. Nợ vì tôi cứ hẹn sẽ viết cho nàng. Gọi là bạn nhưng chưa bao giờ nói chuyện, gọi là bạn vì học cùng trường. Tí hon vì nhỏ hơn tôi ba tuổi. Từ nhỏ, tôi có một tật rất xấu, tôi xem ai nhỏ tuổi hơn tôi là con nít. Vì sao chỉ hơn vài tuổi mà khi nào tôi cũng có cảm tưởng như mình đứng rất cao để nhìn xuống những người tí hon này!
11/08/2016(Xem: 4233)
Nó không biết chính xác năm nay mình bao nhiêu tuổi, chỉ nghe sư thầy nói nó ở chùa đã 12 năm với cái tên Quảng Chân Tâm. Tất cả những đứa trẻ ở chùa ngoài tên đời do cha mẹ đặt, sư thầy đều cho pháp danh với chữ Quảng đứng đầu.
03/08/2016(Xem: 37105)
Nhà thơ triết gia Phạm Công Thiện [1941 - 2011] qua đời năm 2011 tại Houston, nhưng chuyện kể, các bài viết về anh đã nhiều lầm lạc : Người viết : anh bỏ áo tu hành lấy cô vợ người Pháp, theo Thiên Chúa Giáo, kẻ khác viết : anh không hề có một mảnh bằng kể cả bằng tú tài mà dạy Triết Học Viện Đại học Sorbonne, mười lăm tuổi anh đọc và viết hàng chục ngôn ngữ, mười lăm tuổi anh dạy trung học, hai mươi tuổi anh là khoa trưởng khoa Khoa Học Nhân Văn, Đại Học Vạn Hạnh Sài Gòn, anh là triết gia không cần học một ai ? Dạy Triết học tại một Đại Học Pháp mà không cần một văn bằng nào ?
25/07/2016(Xem: 5303)
Người đàn bà đến bên cửa sổ ghé mắt nhìn ra ngoài trời. Qua lớp mưa mù dầy đặc trắng xoá ngoài kia bà chẳng nhìn thấy được gì ngoài những tia chớp xé toạt không gian kèm theo hàng loạt tiếng sấm như long lỡ đất trời. Thời tiết chiều nay quá xấu, xấu hơn người ta đã dự đoán và xấu hơn sự suy nghĩ của Quang, đứa con trai lớn của bà. Đã mấy tháng rồi nó mới có dịp bay về thăm bà vậy mà hôm nay trời lại mưa bão quá chừng! Trước khi lên máy bay nó còn gọi báo cho bà biết: - Bên đây thời tiết đẹp lắm má! Mong rằng khi con bay sang đến Cali thì trời quang mây tạnh, con sẽ chở má đi ăn và ở chơi với má đến tối mới về lại khách sạn.
06/07/2016(Xem: 8688)
Hôm nay là ngày 10 tháng 6 năm 2015, tại thư phòng chùa Viên Giác Hannover, Đức Quốc, tôi bắt đầu viết tác phẩm thứ 65 của mình với tựa đề là “Nước Úc trong tâm tôi” để sang năm 2016 sẽ xuất bản và ấn tống. Tác phẩm nầy được viết trong mùa An Cư Kiết Hạ lần thứ 31 của năm Ất Mùi, nghĩa là từ năm 1984 đến nay (2015) cứ mỗi năm ba tháng như vậy, Thầy trò chúng tôi có trọn vẹn 3 tháng an cư tại chùa Viên Giác thật là an lạc. Chương trình mỗi ngày được bắt đầu từ 5 giờ 45 sáng. Đại Chúng vân tập nơi Tổ Đường để xá Tổ, sau đó lên Chánh Điện, hô canh và tọa thiền 15 phút. Sau khi xả thiền, Đại Chúng bắt đầu trì tụng Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm, phần giữa của thời khóa có kinh hành niệm Phật ba vòng, tiếp đó lạy danh hiệu của chư Phật, Bồ Tát và Thánh Chúng độ 35 lạy. Sau thời công phu khuya ai về phòng nấy để nghỉ ngơi hay hành trì tiếp, hoặc tập thể dục. Đúng 8 giờ sáng là giờ điểm tâm của Đại Chúng, ai nấy đều tỉnh thức trong lúc dùng sáng, không nói chuyện, mà câu chuyện hằng ngày chỉ được
13/06/2016(Xem: 4396)
Hoa Lan nhất định không đầu hàng ngẩng mặt than thở: “Đời là bể khổ, tình là giây oan“ như cụ Tố Như đâu. Hoa Lan phải tâm tâm niệm niệm cột vào tâm câu Nhất thiết duy tâm tạo, khổ hay vui đều do cái đầu và bàn tay năm ngón của ta điều binh khiển tướng. Hoa Lan sẽ kể về nỗi khổ, niềm đau của thế gian trong trường thiên Tỵ Nạn Tình Duyên, một vấn nạn trong cuộc sống lứa đôi, trong vòng ái ân, sinh tử. Nỗi khổ chúng sanh chỉ cần khoanh vùng trong hai chữ tỵ nạn cũng đủ làm ta khiếp vía. Nào tỵ nạn cộng sản, con rơi của tỵ nạn chính trị, cháu rớt của tỵ nạn kinh tế, những đề tài ấy nhắc đến đã đủ ù tai hoa mắt và cũng chẳng phải là sở trường của mình, Hoa Lan sẽ kể về đề tài tỵ nạn tình duyên, nơi đã đi, đã đến và đã về.
01/06/2016(Xem: 13219)
Bài này được viết như một ghi chú cho Thiền Tông, để như một cách tiếp cận đơn giản… và hy vọng, cũng là một ghi chú cho rất nhiều pháp khác của nhà Phật, kể cả Tịnh Độ. Bởi vì, Thiền Tông là pháp môn cốt tủy nhất, trực tiếp nhất, không qua bất kỳ phương tiện nào khác, và cũng có thể dùng làm chiếc cửa lớn cho tất cả các pháp khác.
31/05/2016(Xem: 20956)
Chuyện xảy ra ở Việt Nam, nhưng lại bắt đầu từ bên Mỹ. Số là, vào khoảng thời gian năm 1956, có một kỹ sư Hoa Kỳ tên là Frank M.Balk. Chàng kỹ sư này suốt đời chẳng biết gì về cái xứ bé nhỏ xa xôi tận vùng Đông Nam Á tên gọi là Việt Nam cả.
27/05/2016(Xem: 6569)
Bao nhiêu năm ao ước cho đến hôm nay tôi mới có duyên lành được hành hương về Tây Trúc - Tây Trúc hay Thiên Trúc là tên gọi trước đây của xứ Ấn Độ. Trong phái đoàn tôi đi có nhóm Sợi Nắng và các Phật tử đến từ Canada cũng như Hoa Kỳ. Về chư Tăng thì có thầy Tánh Tuệ - nhà thơ Như Nhiên. Thầy là người từng sống và học tập ở Ấn Độ suốt bảy năm nên thầy nắm rất rõ về lịch sử, địa lý, phong tục tập quán... của người Ấn Độ. Cũng chính vì thâm niên như vậy nên nước da thầy rám nắng và người ta thường gọi thầy với cái tên rất gần gũi là "thầy cà-ri". Ngoài ra, phái đoàn còn có thêm sư cô An Phụng và sư cô Huệ Lạc
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]