Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nửa Hồn Xuân

09/01/201213:23(Xem: 5723)
Nửa Hồn Xuân
canhdep_1a
NỬA HỒN XUÂN

(Truyện ngắn)
Thích nữ Tịnh Quang

“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ
Đào hoa y cựu tiếu đông phong.”
(Thôi Hộ)


Hoa-dao-8Thoáng chốc mà đã bamươi sáu năm, như ba sáu ngày nhẹ nhàng trôi trên dòng thời gian vô hình vunvút. Cũng một buổi chiều xuân với bầu trời trong vắt, ánh mặt trời rãi màu vànglốm đốm trong vườn đào đầy thơ mộng này, và cũng dưới cội đào già này, Đông và Xuânđã gặp nhau…Trái tim chàng từ đây đã trỗi nhịp yêu thương, thổn thức, mong chờ,và hồi hộp…tâm hồn của chàng đã là nửa hồn của nàng Xuân ngày ấy. Và giờ đây…“thờigian thiệt phũ phàng…!” chàng lẩm bẩm như kẻ vừa thức giấc sau một cơn mộng đẹp.Chàng ôm đầu tựa vào gốc hoa đào và nở một nụ cười nhạt nhẽo man dại, nhìn chântrời xanh xa xa, ký ức của chàng lui dần về quá khứ…

Đông nhớ rằng ngày ấy họcòn trẻ lắm, chàng và nàng chỉ mới hai mươi tư, tuổi của niềm đam mê và tràn đầyhứa hẹn…Chiều mồng hai tết Đông đi du xuân và gặp Xuân tại vườn đào kế bên nhànàng…Ánh nắng chiều biên biếc đã tô đẹp thêm nhan sắc của tuổi mộng mơ…họ nhìnnhau, lưu luyến nhau, và rồi ngàn lời thề non hẹn biển để xây đắp tổ uyên ươngkhi chàng đã hoàn tất công danh sự nghiệp của mình.

Nhưng nghịch cảnh đã đẩyđưa, họ tạm gác lại lời thề ấy. Đông và Xuân mỗi người một ngả, chàng ra đi cònnàng phải ở lại quê nhà.

Đông nhớ mồn một hômnao Xuân tiễn chàng lên máy bay, họ quàng vai nhau khóc sướt mướt, chàng biết rằngXuân yêu chàng lắm, nàng rất muốn khăn gói theo chàng nhưng ngặt một nỗi chanàng mất sớm, mẹ thì tật bệnh, nàng còn phải gánh buôn để nuôi mẹ và hai đứa emnhỏ dại nên không thể theo chàng; còn chàng chỉ có hai cha con và phải vâng mệnhcha để lên chuyến bay cuối cùng đến Mỹ vào tháng tư năm một chín bảy lăm...

Ba năm đầu định cư tạiMỹ chàng sống như cái xác không hồn, đêm mộng ngày mơ về quá khứ. Cha chàng bảo:“Con Xuân đã hớp hồn mày rồi!” Đúng vậy, Đông làm gì cũng thất bại không đâu rađâu, bởi hồn chàng chỉ còn một nửa, và một nửa là ở bên kia đại dương xa tít mùkhơi.

Đông rất mừng khi đi rađường gặp người Việt Nam; lúc chàng đang lái xe mà gặp một người châu Á đi bộbên lề đường là chàng quay xe lại, tấp vào lề và hỏi: “Are you Vietnamese?” Nếulà người Việt Nam chàng hỏi thăm đủ thứ chuyện, đặc biệt là chàng muốn biết khinào Việt Nam mở cửa cho Việt kiều về thăm quê cũ.

Mùa xuân năm thứ nhất…thứ hai… thứ ba…trôi đi, rồi đến xuân thứ tư…xuân thứ năm… từng đàn én lượn xônxao khi chiều đến, nhưng trong lòng chàng vẫn trĩu nặng một nỗi buồn u uẩn khibên kia bờ vẫn bặt vô âm tín, chàng không còn hy vọng trở về Việt Nam, chàngkhông còn hy vọng xây đắp lời thề; chàng nghĩ rằng cha mình cho rằng mình‘hoang tưởng’ là đúng… Thế rồi Đông tự vực dậy cuộc đời mình, lo làm ăn và lậpgia thất để không làm buồn khổ cha của chàng nữa.Tuy nhiên trong tâm chàng luônao ước cho Xuân vạn sự an lành và hạnh phúc, và lời thề kia chàng xin hẹn lạikiếp lai sinh tới.

Chuyện quá khứ tưởng chừngnguôi ngoai như thuyền đã ra khơi, thời gian đã sang trang mới; nhưng đầu mùaxuân năm thứ hai mươi mốt Đông nhận được lá thư của Xuân từ một người bạn họccũ của Đông vừa sang nhập cư. Đọc thư Xuân, biết nàng vẫn còn mạnh khỏe, nàngkhông có gì thay đổi, vẫn còn chiết bóng lẻ loi, biết nửa hồn của Xuân vẫn cònthuộc về chàng…Đông đau đớn lắm…

Như vết thương đã lành theothời gian nay lại tái phát, chàng đã tiếp tục tơ tưởng về quá khứ…về một chiềuxuân bên cội hồng đào, về những tháng ngày mặn nồng hò hẹn, về những tình thưđang còn dang dở, về những ngôn từ chan chứa ngàn lời yêu thương…chàng bị ám ảnhvới vẻ mặt ngọc mày ngà, với “dáng buồnnhư cúc, điệu gầy như mai” của Xuân…ký ức chàng trỗi dậy, chàng phải tìm đến hộpđêm và men rượu để giải sầu, và chàng không còn tha thiết đến vợ con nữa…Cuốicùng chàng đã từ bỏ tất cả và sống với chiếc bóng quá khứ “ma quái” của mình.

Và trong căn hộ đơn chiếcĐông đã gặp lại ngày xuân quá khứ của chàng. Hằng năm cứ mỗi mùa xuân là chàngnhận được chiếc áo ấm chính tự tay Xuân đan cho chàng. Chiếc áo không đẹp nhưnhững chiếc áo ấm tân thời, nhưng chàng vẫn thích chờ đợi mỗi mùa xuân đến đểcó thêm chiếc áo mới. Chàng hồi hộp khi nhận món quà đúng vào ngày cuối đông,sinh nhật của chàng. Chàng nhẹ nhàng cẩn thận mở nó, không dám nặng tay để hư bao bì bên ngoài, chàng quí trọng từng kỷ vật“thiêng liêng” của tình yêu mà Xuân gởi tặng cho chàng….Chàng đưa tay nhẹ nhàngvuốt ve chiếc áo nơi có thêu hai tên Đông Xuân với màu tím nhạt lấp ló sau haitrái tim đỏ gắn liền nhau, chàng ôm chiếc áo vào lòng rồi ngửi mùi áo mới,chàng thoảng nghe rằng hương xuân vẫn mãi còn đâu đây như chưa từng biến động.Mỗi năm chàng mặt một chiếc áo mới, mỗi năm là một sắc màu tươi trẻ. Những chiếcáo len cũ chàng cho vào tủ kiếng khóa chặt cẩn thận như sợ rằng ai đó vô tình đụngvào báu vật của chàng.

Mùa xuân năm nay Đôngcó thêm chiếc áo len thứ mười lăm, chàng không muốn như trẻ thơ cứ mãi hồi hộp chờđợi những món quà của người thương khi mùa xuân đến nữa. Chàng đã về hưu, chàngmuốn tận hưởng những giây phút hạnh phúc thực sự của tuổi xế chiều, chàng muốnhai mảnh hồn đơn ghép lại thành ánh trăng vàng giữa bầu trời tâm mông lungnày…Chàng không thể chịu đựng được nỗi cô đơn cứ dai dẳng đeo bám chàng, chàngphải sống với sự thực, chàng phải đem Xuân trở về với chàng để đêm sớm có nhaucho đời thôi quạnh quẽ.

Đông say sưa nhìn vào tấmhình mà Xuân mới gởi cho chàng, chàng ngớ ngẩn và đê mê trước nhan sắc vượt thờigian của Xuân, nàng như một cô tiên “chim sa cá lặn”, mắt biếc mày xanh và đôimôi chín mọng kia vẫn còn quyến rũ bao kẻ si tình như chàng. Chàng không muốnmình là kẻ nhút nhát yếu đuối nữa, chàng phải tự quyết định tình yêu của mình,chàng phải có tinh thần “nam nhi chi chí”…

Chàng bấm số điện thoạigọi cho Xuân và đi thẳng vào vấn đề…và chàng chờ đợi tin vui từ câu trả lời củaXuân…Lặng thinh một giây lâu rồi bỗng chốc Xuân sặc cười và nói: “Đông ơi làĐông, anh đang đùa hay đang điên thế…? Chàng rưng rức van nài một lần nữa, Xuântrả lời một cách dứt khoát: “Tốt nhất là chúng ta đừng bao giờ gặp nhau nữa nhé!”và nàng luống cuống tắt máy.

Như một gáo nước lạnh tạtvào mặt, chàng giận và hận nàng lắm. Suốt đêm chàng không sao ngủ được, chàngnghĩ đúng là hoa hồng càng đẹp gai càng nhọn! Chàng không hiểu vì sao nàng lạisợ hãi sự thực, sợ hãi tình yêu và hôn nhân trong khi Xuân cũng đã yêu chàng vàhọ đã có lời thề sắc son từ thuở ban đầu lưu luyến ấy kia mà. Chàng là Việt kiều,chàng có thể về Việt Nam hay bất cứ nơi đâu để cưới cô gái xin đẹp tuổi mườitám đôi mươi nếu chàng muốn. Đông nghi ngờ nàng…Phải chăng nàng đã dối lừachàng (?) Phải chăng nửa hồn của Xuân đã cập vào một bến lạ…(?) và chàng muốn đitìm sự thực, chàng muốn biết sự thực. Chàng muốn gây sự bất ngờ đối với Xuân….

…Mệt mõi qua hai chuyếnbay về Việt Nam, chàng vẫn không ngủ được, có lẽ không quen khí hậu và thời giờkhác biệt giữa Việt Nam và Hoa kỳ vì chàng từ giã nó đã ba mươi sáu năm, và điềuquan trọng nhất là những thao thức mà chàng dự tính cho ngày mai. Đông bước rakhỏi giường rất sớm, tắm rửa sạch sẽ, gọi người lao công khách sạn mua chochàng một tô phở điểm tâm, xong chàng mở máy laptop để xem tin tức Hoa Kỳ quanhững trang web hải ngoại như thường lệ….đến chín giờ chàng có cuộc hẹn với nhữngngười bạn cũ và đi ăn trưa tại một nhà hàng hải sản cùng họ, xong chàng trở vềlại khách sạn.

Đông đến trước tủ kiếnglớn để nhìn ngắm dung nhan của mình: “mắt to, mũi thẳng, da trắng nổi bật bênmàu tóc đen lóng lánh vừa mới nhuộm và chải keo mềm, dù có không ít vết nhăntrên khuôn mặt và những dấu chân chim tơi bời ở đuôi mắt…không sao, ta vẫn cònbảnh bao lắm, đàn ông ở độ tuổi này có được khuôn mặt thanh lãm và vóc dáng nhưta cũng hiếm…” chàng tự nhủ. Chàng đeo kiếng nâu Ray-Ban, diện bộ com-lê Francexanh với chiếc cà vạt đỏ thẩm, mang đôi giày đen bóng láng hiệu Canali Italy vàkhông quên xức nước hoa Sexy Men. Chàng bước ra khỏi khách sạn và gọi taxi đưachàng về hướng Bình Chánh vùng ngoại ô Sài Gòn, nơi có vườn đào thơ mộng nằm cạnhcăn nhà bé nhỏ của Xuân.

“Hôm nay là ngày mồnghai tết, ba mươi sáu năm trước cũng vào một chiều xuân ngày này ta và em gặpnhau ở vườn đào thơ mộng, không biết cội đào già kia có còn ra hoa không? Khôngbiết chim trên cành có còn reo vui khi mình gặp gỡ…?” hàng trăm câu hỏi cứ lẩnthẩn trong đầu chàng với ngày trở về “bí ẩn” này. Qua cửa kiếng xe, chàng ngướcnhìn bầu trời xanh bình lặng, những cụm mây trắng nổi trôi tạo thành dáng vẻthướt tha của kiều nữ ở độ tuổi xuân thì và chàng mường tượng đó là Xuân-Xuânchưa từng phai, Xuân đẹp mãi nghìn đời.

Ô kìa đây rồi! Đông bướcxuống xe, chàng lặng người một giây lâu để ngắm vườn đào không gì thay đổi. Chàngkhông biết nó là vườn đào của ba mươi sáu năm hay người ta mới trồng lại trongnhững năm gần đây. Chàng tới gốc gây đào xưa và thẩn thờ ngắm những cánh hoađào phơi sắc trong nắng và gió, những nụ hoa hồng thắm vừa mới nở e ấp duyêndáng như mời gọi chàng; khẽ lung linh trong gió mới, những cánh hoa đu đưa khiếncho bóng nắng cứ vờn qua vờn lại như những bức tranh di động muôn màu. Chàng nângmột nụ hoa rồi hôn lên nó, hít vào thật sâu để tận hưởng trọn vẹn hương hoa củangày xuân chớm nở; chàng nhắm mắt lặng nghe tiếng chim hót, tiếng gió thì thàobên những cành đào xuân thì, chàng mơ màng dư âm ngày cũ đâu đây hiện về trongphút giây thực tại…Chàng run rẩy với hạnh phúc đơn sơ mà chàng đã bị tuột mấtqua những tháng năm dài ray rức.

Chậm rãi, Đông bước tớicuối vườn đào và đi về hướng trái, căn nhà của Xuân hiện ra với tường sơn xanhmới tinh thay vì đó là ngôi nhà gỗ cũ kỹ; chàng móc địa chỉ trong túi áo ra vàdò lại số 5/35, ‘đúng rồi’. Chàng gõ cửa…tim chàng đánh thình thịch và chàng phảiôm chặt bó hoa hồng vì sợ nó bung ra khỏi tay chàng; tiếng chốt sắc vừa kéo lên,cánh cửa mở tung, một phụ nữ già run rẩy chống gậy, chân tay khô đét, đầu tóclưa thưa trắng phau, mặt xệ da nhăn, đôi mắt lem nhem, răng rụng gần hết, móm méohỏi chàng sau một cơn ho sặc sụa:

- Ông muốn tìm ai?

Đông lễ phép nói:

-Dạ thưa, cháu muốn gặpXuân cụ ạ.

-Tui chính là Xuân đây,ông cần gì?

Bà ta vừa trả lời vừaráng nhướng to đôi mắt để nhìn chàng.

Chàng chợt nhận ra giọngnói quen thuộc, khựng một lúc… rồi chàng lấp bấp:

-x…in…l…ỗi!

Bó hoa hồng vụt rơi xuốngđất, chàng lảo đảo bước nhanh về phía vườn đào như bị ma rượt…

Đến gốc cây đào cũ,Đông quỵ xuống và cảm thấy toàn thân rã rịu, một lúc sau chàng như sực tỉnh mộtđiều gì đó rồi cười như điên dại với chính chàng. Chàng há hốc mồm nhìn lên cànhxuân, những cánh đào tơ vẫn đang phơi phới khẽ gọi nửa hồn xuân, chàng lẩm bẩm:“Đào hoa y cựu tiếu đông phong!”

Một tiếng chuông chùa vừađổ ở bên kia đồi. Đông đứng dậy hướng về phía ngôi cổ tự heo hút cuối trời tây,chàng lững thững bước trên cái bóng xiêu vẹo của chính mình khi chiều đã ngãvàng nắng nhạt.

TN.TịnhQuang

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/02/2015(Xem: 4783)
Một trong tôn giáo cổ xưa Có thầy tu nọ rất ưa tế thần Tuy ông nổi tiếng xa gần Nhưng mà mê muội tâm thần nhiều thay. Một hôm ông chọn dê này Cho rằng thích hợp, giết ngay tế thần Nghĩ suy lầm lạc vô ngần:
25/01/2015(Xem: 6777)
Tác phẩm Một Đóa Sen, được diễn nói về vận hành tầm sư học đạo của Sư bà Thích Nữ Diệu Từ, thật là gian truân trăm bề, được thấy từ khi mới vào “Thiền Môn Ni Tự” ở các cấp Khu Ô Sa Di, Hình Đồng Sa Di, ứng Pháp Sa Di và Tỳ Kheo Ni ở tuổi thanh niên mười (10) hạ lạp rồi, mà vẫn còn gian nan trên bước đường hành hoạt đạo Pháp. Nhưng Sư bà vẫn định tâm, nhẫn nhục , tinh tấn Ba la mật mà tiến bước lên ngôi vị Tăng Tài PGVN ở hai lãnh vực văn hóa quốc gia và Phật Giáo Việt Nam một cách khoa bảng. Nếu không nói rằng; tác phẩm “Một Đóa Sen và Pháp thân” của Sư bà Diệu Từ, là cái gương soi cho giới Ni PGVN VN hiện tại và hậu lai noi theo…
24/01/2015(Xem: 4948)
Mỗi sáng sớm khi sương còn mù mịt trên sông, chiếc thuyền con của lão già đã là đà rẽ nước, hướng về bờ – lúc thì bờ đông, lúc thì bờ tây, nơi những ngôi nhà tranh và những chiếc ghe nhỏ tụ tập. Mái chèo khua nhè nhẹ như thể sợ động giấc ngủ của thế nhân. Chẳng ai biết chắc lão có gia đình, nhà cửa ở đâu hay không. Nhưng người ta có thể đoán chiếc thuyền con ấy chính là nhà của lão, vì lão phơi thuốc, xắc thuốc, nấu thuốc ngay trên đó. Trên thuyền không còn ai khác. Ban đêm, thuyền của lão neo ở đâu không ai biết, nhưng sáng sớm thì thấy lù lù xuất hiện trên sông hoặc nơi bờ cát. Lão già đến và đi, một mình. Mỗi ngày xách cái túi nhỏ rời thuyền, thường là đi hái thuốc trên núi, ven rừng, bờ suối, có khi vào làng chữa bệnh cho bá tánh rồi ghé chợ mua vài thứ lĩnh kĩnh.
21/01/2015(Xem: 10205)
1. Chân như đạo Phật rất mầu Tâm trung chữ Hiếu niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân Nhân là cứu độ trầm luân muôn loài. 5. Thần thông nghìn mắt nghìn tay Cũng trong một điểm linh đài hóa ra,
16/01/2015(Xem: 3694)
Sau 30-4-75, tất cả giáo chức chúng tôi đều phải đi học tập chính trị trong suốt 3 tháng hè mà họ gọi nôm na là "bồi dưỡng nghiệp vụ". Một buổi chiều sau mấy ngày "bồi dưỡng", tôi đạp xe lang thang qua vùng Trương minh Giảng, tình cờ gặp Báu - một người học trò năm xưa, rất xưa, đang ngơ ngẩn đứng trước cửa nhà. Dừng xe đạp, tôi chào: - Báu hả? Phải em là Trương thị Báu không? Có nhớ ra cô không? Báu giương mắt nhìn tôi, nhìn đi nhìn lại rồi nghiêng đầu lại nhìn...Em không nhớ nổi... Tôi đã thoáng thấy được một tâm thần bất thường qua thần sắc cũng như qua đôi mắt trống rỗng vô hồn!
16/01/2015(Xem: 4920)
Năm 1954 ông Thiện khăn gói đùm đề đưa mẹ, vợ và hai đứa con gái xuống con tàu há mồm vào Nam.Trên bờ, Thụ, người em trai của ông còn đưa tay vẫy vẫy. Đêm hôm qua, ông và người em trai bàn rất nhiều về chuyến ra đi này.Người em nói: - Đất nước đã hòa bình, độc lập, anh nên ở lại, dù gì cũng là nơi chôn nhau cắt rốn.Vào Nam xứ lạ quê người, chân ướt chân ráo trăm bề khổ sở... Ông Thiện đã trả lời em:
15/01/2015(Xem: 5125)
Trong cả thành phố này, anh chị chỉ có tôi là chỗ thân nhất, vừa là thầy vừa là bạn. Buổi sáng anh gọi phone bảo trưa nay đến đón tôi về nhà dùng cơm cho vui. Hôm nay là sinh nhật của thằng Alexander con một của anh chị.
14/01/2015(Xem: 7980)
Tiếng Hồng chung Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang nói riêng và các chùa trong thành phố Nha trang nói chung, sớm khuya ai cũng có thể nghe được, nhưng nghe để “Trí tuệ lớn” và “Bồ-đề sinh” thì tùy theo “phiền não” của đối tượng nghe có vơi nhẹ hay không? Riêng với nhà văn Võ Hồng, qua tác phẩm “Tiếng chuông triêu mộ” cho thấy Trí tuệ và Bồ đề của ông sanh trưởng tốt. Nhưng nhân duyên như thế cũng chưa đủ, ông là giáo sư của PHV, của trường Bồ Đề, là thiện tri thức của các bậc cao Tăng ở đồi Đông và đồi Tây non Trại Thủy. Có thế mới có truyện ngắn “Cây khế lưng đồi”, có tùy bút “Con đường thanh tịnh”. Thưa thầy Võ Hồng, chừng ấy đủ rồi, đủ cho PHV đi vào lịch sử văn học, đủ cho 100 năm sau, 1000 năm sau hay nhiều hơn thế nữa, nhìn thấy PHV uy nghi như một Linh Thứu thời Phật và cũng cho thấy các bậc cao Tăng Miền Trung nói riêng xứng đáng là những Sứ giả Như Lai đầy trách nhiệm đối với sự trường tồn của Phật giáo Việt Nam.
09/01/2015(Xem: 4316)
Tháng 10 năm 1962, TT Chủ Tịch Ủy Ban Liên Phái… nhờ Tôi đi công tác Vũng Tàu, Tôi đi chuyến xe đò lúc 8g30 sáng, xe chạy vừa khỏi hãng xi-man Hà Tiên, thì có 3 người đón xe. Anh tài xế nói với tôi : “Thầy vui lòng xuống hàng ghế phía dưới để cho “mấy cha”ngồi, vui nghen Thầy”! Tôi lách mình qua khoản trống thì có 2 vị đưa tay đón và đở nhường chỗ ngồi còn nói lớn: “Ngộ ha, cha quí hơn Thầy “! Tôi sợ gây chuyện không vui, nên đưa tay và lắc đầu xin yên lặng. Vì đương thời bấy giờ bóng dáng của các áo đen có nhiều sát khí thế lực! Nhưng, Mộc dục tịnh, nhi phong bất đình 木欲淨而風不亭.Xe chạy êm ả, gió lùa mát rượi.
26/12/2014(Xem: 13619)
Phât tử Chơn Huy ở Hoa Kỳ về có đem theo tập tự truyện dày của Tỳ Kheo Yogavacara Rahula. Cô nói truyện rất hay, khuyên tôi đọc và nhờ tôi dịch ra Việt ngữ để phổ biến trong giới Phật tử Việt Nam. Câu chuyện rất lý thú, nói về đời của một chàng trai Mỹ đi từ chỗ lang bạt giang hồ đến thiền môn. Truyện tựa đề "ONE NIGHT'S SHELTER (From Home to Homelessness)--The Autobiography of an American Buddhist Monk". Tôi đọc đi rồi muốn đọc lại để thấu đáo chi tiết trung thực của một đoạn đời, đời Thầy Yogavacara Rahula. Nhưng thay vì đọc lại, tôi quyết định dịch vì biết rằng dịch thuật là phương pháp hay nhứt để hiểu tác giả một cách trọn vẹn. Vả lại, nếu dịch được ra tiếng Việt, nhiều Phật tử Việt Nam sẽ có cơ duyên chia sẻ kinh nghiệm quý báu của Thầy Rahula hơn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]