Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Mẹ Quan Âm Cửu Long (tập truyện)

27/03/201104:48(Xem: 5129)
Mẹ Quan Âm Cửu Long (tập truyện)

MẸ QUAN ÂM CỬU LONG
Huỳnh Trung Chánh

quanam-1

LỜI NÓI ĐẦU

Chư Bồ Tát, tùy theo hạnh nguyện thù thắng khác biệt mà mỗi vị mang một danh hiệu khác nhau, tựu trung hạnh nguyện của vị nào cũng vĩ đại rộng sâu không thể nghĩ bàn và hạnh nguyện nào cũng khiến tôi chân thành ngưỡng mộ. Ngày xưa, mỗi khi đọc tụng suy tư về hạnh nguyện cao cả của quý Ngài, thân tâm tôi cực kỳ khích động, tôi hân hoan, tôi kinh ngạc, tôi thần phục... rồi tự nhiên nước mắt tôi ràn rụa trong niềm hỉ lạc khôn nguôi. Gần đây, nhân tụng kinh Đại Bảo Tích, “Pháp Hội Văn Thù Sư Lợi thọ ký”, chiêm ngưỡng hạnh nguyện của Ngài Văn Thù, tôi bỗng khám phá rằng niềm xúc động của tôi vẫn dạt dào cao ngất như thời trai trẻ không sai khác.

Niềm tin tưởng Phật đạo của tôi gắn liền với lòng ngưỡng mộ chư Bồ Tát, do đó, tuy vẫn tự thẹn mình tài hèn, đức mỏng, chí khí kém cỏi nhưng bao giờ tôi cũng tha thiết mong ước hành được phần nào Bồ Tát hạnh, dù rằng tôi chỉ có thể thực hiện trong khả năng hạn hẹp nhỏ nhoi của mình. Thuở ban đầu học Phật, tôi rất cảm khích đại nguyện “địa ngục chưa trống không thì chưa thành Phật” của Địa Tạng Vương Bồ Tát, nên thường nhủ lòng gần gũi với những kẻ lâm cảnh tù tội, những kẻ chìm trong tăm tối u mê... để an ủi, chia xẻ nỗi khổ với họ. Tôi cũng say mê hạnh nguyện Quán Thế Aâm Bồ Tát, lắng nghe tiếng kêu than của chúng sanh trong thế gian để ban vui cứu khổ. Oâi cứu độ người mà tùy hỉ không câu nệ hình tướng, cứu người mà tùy thuận người... lòng từ bi của Ngài thật là bất khả thuyết, bất khả thuyết. Thời trung niên, đường đời trắc trở, tôi thường chiêm bái tượng Bồ Tát Di Lạc, tạc theo hình dáng của Ngài Bố Đại hòa thượng, với nụ cười hoan hỉ trước sự khuấy phá của sáu đứa nhỏ - lục tặc -. Tôi nguyện nương theo Ngài học tập hạnh hỷ xả - buông bỏ -, dẫu rằng hành vi thả lỏng sáu căn tiếp xúc không ngăn ngại với sáu trần mà lòng không xao động là chuyện thiên nan vạn nan tôi chưa bao giờ thực hiện nỗi. Tuổi đời chồng chất, tôi bắt đầu biết nhìn lại mình, nhờ vậy ngày càng khám phá ra con người thật hư đốn của mình. Nhận thấy mình tội chướng sâu dầy, ngày đêm cần phải chân thành sám hối, nên tôi hết lòng quy ngưỡng Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, để tích cực tu tập vun bồi đạo đức. Thật ra, trong thập nguyện Phổ Hiền, thì ngay như đệ nhứt nguyện “Lễ kính chư Phật” tôi vẫn chưa thực hành nỗi, nhưng tôi vẫn cảm thấy rằng nhờ nương theo Phổ Hiền Đại Nguyện tu tập mà đạo hạnh của tôi lần lần được cải sửa đôi chút. Nhân duyên tu tập “Phổ Hiền Hạnh Nguyện” của tôi rất đặc biệt: khi tôi đọc tụng phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện lần đầu tôi nghe rúng động cả toàn thân vì man mán như đã từng tụng phẩm kinh nầy nhiều lần tự kiếp nào rồi. Tôi chân thành tha thiết quy ngưỡng Bồ Tát Phổ Hiền, tương tợ như đứa con bơ vơ lạc lõng bỗng tìm về mái nhà xưa ấp ủ trong lòng mẹ.

Do niềm tin kính vô biên với chư Bồ Tát mà trong các tập truyện của tôi, tôi thường nhắc nhở đến hạnh nguyện của chư Bồ Tát để tán thán, để ngưỡng vọng và chân thành hướng về quý Ngài để nương tựa mà tu tập. Tôi cũng tha thiết mơ ước hội đủ thiện duyên hành hương Trung Quốc, chiêm bái bốn đại danh sơn : Ngũ Đài, Nga Mi, Phổ Đà và Cửu Hoa, nơi mà chư cổ đức ca ngợi rằng chư Bồ Tát trong bước đường hành hóa đã từng xuất hiện. Ước mơ của tôi may mắn đã biến thành sự thật, tôi đã có phước duyên hy hữu chiêm bái tứ đại danh sơn vào mùa thu năm 1999, và tuy thời gian hành hương ngắn ngủi không thánh tích nào được chiêm bái đầy đủ, nhưng ở địa điểm nào tôi cũng xúc động dạt dào để dâng hiến tất cả lòng thành kính thiết tha của mình lên chư Bồ Tát, nên tôi đã mãn nguyện lắm rồi.

Tập truyện nầy bắt đầu viết khi những hình ảnh của chư Bồ Tát và tứ đại danh sơn vẫn còn bàng bạc trong tâm khảm, tác giả hi vọng những hình ảnh hùng vĩ, thiêng liêng của thánh địa sẽ còn phản phất trong những mẩu chuyện đạo để ưu ái trao đến bạn đọc, mong bạn đọc có thể đón nhận được niềm tin tưởng vô biên vào đạo pháp vẫn tràn ngập trong lòng tác giả.

Trân trọng.

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/10/2010(Xem: 3303)
Hàng ngàn năm trước tây lịch, khi thổ dân Dravidian còn ngự trị khắp lãnh thổ Ấn Độ cổ thời, vùng phía tây Hy Mã Lạp Sơn là lãnh địa của rắn. Vốn là vùng rừng núi bạc ngàn nằm trên nóc nhà thế giới, Hy Mã Lạp Sơn là nơi thâm u bí hiểm với sơn lam chướng khí trùng trùng và vô số loài thú dữ cư ngụ sẵn sàng lấy mạng người để làm thức ăn. Thời đó, thổ dân Dravidian không có đủ vũ khí hùng mạnh để chống cự với các loài mãnh thú và tự bảo vệ mình. Từng người vào rừng săn tìm thức ăn đã không thấy trở về. Độc địa nhất không phải chỉ là những hổ, cọp, gấu, beo nằm lồ lộ chờ mồi bên bờ suối, dưới gốc cây hay trong khe đá, mà ngay bên dưới lớp lá khô mục của đường rừng là những loài rắn nguy hiểm chực chờ bước chân người.
16/10/2010(Xem: 2651)
Trong thiền không có đầu đuôi, khúc chiết, lý luận. Nó đập vỡ lý luận. Đó là thế giới lý tưởng của câu thơ lớp ba mồ côi luận lý. Thế giới của những câu cuối lấc cấc, mẹ gà con vịt. Đừng bắt tôi giải thích; hãy lang thang với tôi trong câu cuối của dăm ba chuyện thiền nổi tiếng.
16/10/2010(Xem: 2807)
Trong đời, tôi đã thấy mặt trăng lần nào chưa? Nhìn trăng, tôi nhìn cả đời. Nhưng thấy trăng, tôi không dám nói chắc. Khi tôi nhìn trăng trước mắt, tôi nghĩ đến trăng nửa khuya loáng thoáng trên tàu lá chuối sau vườn cũ. Tôi nghĩ đến đèn trung thu lúc nhỏ. Tôi nghĩ đến cái chõng tre giữa sân trên đó, ngày xưa, tôi nằm nhìn mây bay. Nhìn trăng, tôi không thấy trăng. Chỉ thấy lá chuối, chõng tre. Thấy cả tôi với trẻ con hàng xóm nô đùa. Có lần tôi trốn tìm với chúng nó, bị lộ, tôi nhảy bừa vào bụi tre, bất ngờ có đứa con gái đã ngồi sẵn trong đó. Tôi sợ hoảng, toan vọt ra thì nó kéo tay tôi lại, ấn vai tôi xuống, cười đồng lõa. Trong loáng thoáng của cây lá, tôi thấy hai cái răng cửa của nó sáng ngời ánh trăng. Bây giờ, nhìn trăng non, tôi thấy cái miệng và hai cái răng. Tựa như hai cái răng của nó phát ánh sáng và in hình miệng nó lên bầu trời.
16/10/2010(Xem: 2161)
Ngày xưa, một nhà quan lang họ Cao có hai người con trai hơn nhau một tuổi và giống nhau như in, đến nỗi người ngoài không phân biệt được ai là anh, ai là em
16/10/2010(Xem: 2025)
Ngày xưa, vào hồi Tây Sơn khởi nghĩa, có một chàng trai người vùng Đồng Nai, có tài cả văn lẫn võ, đã vung gươm hưởng ứng sự bất bình của thiên hạ.
16/10/2010(Xem: 1847)
Ngày xửa... Ngày xưa... Có một cô bé rất giàu lòng yêu thương. Cô yêu bố mẹ mình, chị mình đã đành, cô còn yêu cả bà con quanh xóm...
15/10/2010(Xem: 2244)
Một danh tướng về già muốn tặng thanh kiếm báu của mình cho một tướng quân ở xa. Ông giao trọng trách đó cho một gia nhân, cũng là một tay kiếm xuất chúng. Cẩn thận như vậy, ông vẫn không yên lòng, nghĩ rằng kiếm sĩ này chưa chắc đã đủ chín chắn để giữ kiếm không bị cướp dọc đường. Thanh kiếm không những quý về chất thép mà còn quý vì chuôi kiếm có nạm vàng và ngọc vua ban.
13/10/2010(Xem: 1698)
Có hai vợ chồng một ông già tên là Dã Tràng. Trong vườn họ có một hang rắn. Thường ngày làm cỏ gần đấy, ông già vẫn thấy có một cặp vợ chồng rắn...
13/10/2010(Xem: 3276)
Vào Thứ Sáu, ngày 8 tháng 10 năm 2010, Ủy Ban Giải Nobel Hòa Bình Na Uy đã công bố giải Nobel Hòa Bình năm 2010 được trao cho Lưu Hiểu Ba. Lưu Hiểu Ba, sinh năm 1955 tại thủ phủ Trường Xuân của tỉnh Cát Lâm ở đông bắc Trung Quốc, là nhà tranh đấu bất bạo động cho tự do, dân chủ và nhân quyền tại Trung Quốc. Ông đã từng tham gia phong trào sinh viên đấu tranh trong biến cố Thiên An Môn năm 1989 và sau đó liên tục bị sách nhiễu, quản chế tại gia và tù tội. Ngày 8 tháng 12 năm 2008, ông đã bị bắt vì cùng một số nhà tranh đấu dân chủ và nhân quyền Trung Quốc công bố Hiến Chương 2008 đòi xóa bỏ chế độ cai trị độc đảng để tiến tới một xã hội dân chủ cho Trung Quốc. Hiến Chương 2008 cho đến nay đã có hơn 8,500 người tham gia ký tên. Vì Hiến Chương 2008, Lưu Hiểu Ba đã bị chính quyền cộng sản Trung Quốc kết án 11 năm tù. Hiện ông vẫn còn ngồi tù ở Liễu Ninh, Trung Quốc.
11/10/2010(Xem: 2194)
Không ngờ tôi lại có được duyên lành đi chung với Thầy Trụ Trì Chùa Tâm Giác một đoạn đường khá xa. Tôi vẫn thường hay đến chùa, vãn hay gặp Thầy nhưng lúc nào Thầy cũng „Phật sự đa đoan“ nên tôi có rất ít thì giờ gần gũi và tiếp xúc với Thầy nhiều. Chuyến đi này thật hữu ích cho tôi vô cùng, tôi đã nghe và thấm nhuần được rất nhiều điều về Giáo lý Phật Đà - một niềm tin mà tôi luôn luôn tôn thờ và say mê khi vừa mới lớn cho đến tận bây giờ và cũng nhờ Thầy mà đoạn đường đi về 260 km không còn xa vời vợi nữa.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567