Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Liễu Ngộ

03/07/201200:20(Xem: 3216)
Liễu Ngộ

labode_9
LIỄU NGỘ

Thích nữ Tịnh Quang


Ni sư Ryonensinh năm 1797. Cô là cháu nội của Shingen, một vị tướng Nhật nổi tiếng. Sắc đẹp quyến rũ và thiên tài về thi ca đã khiến cô trở thành một công nương trong triều đình, kề cận bên hoàng hậu khi mới 17 tuổi. Tuy còn quá trẻ như thế nhưng danh vọng đã chờ đón cô.

Rồi vị hoàng hậu kính yêu của cô đột ngột qua đời và những mơ ước tràn đầy hy vọng của cô cũng tan thành mây khói. Cô bỗng nhận thức được một cách sâu sắc về sự vô thường trong cuộc sống trên thế gian này. Ngay khi ấy, cô mong muốn được tu học thiền.

Tuy nhiên, gia đình cô không đồng ý và gần như ép buộc cô phải lập gia đình. Ryonen chỉ đồng ý nghe theo với điều kiện là sau khi sinh 3 đứa con cô sẽ được phép xuất gia làm ni cô.

Khi cô chưa được 25 tuổi thì điều kiện này đã đáp ứng, và chồng cô cũng như những người thân khác không còn ngăn cản ước nguyện của cô nữa. Cô cạo tóc, lấy tên mới là Ryonen, có nghĩa là “liễu ngộ” hay “giác ngộ hoàn toàn”. Rồi cô khởi sự cuộc hành trình cầu đạo.

Cô tìm đến thành phố Edo và cầu xin ngài Tetsugyu nhận làm đệ tử. Chỉ nhìn thoáng qua, vị thầy này đã từ chối ngay vì cô quá đẹp!

Ryonen lại tìm đến một bậc thầy khác, ngài Hakuo. Ngài cũng từ chối với cùng lý do, bảo rằng sắc đẹp của cô hẳn chỉ gây ra phiền toái mà thôi!

Ryonen liền lấy bàn ủi nóng áp lên mặt mình. Chỉ trong chốc lát, sắc đẹp của cô đã vĩnh viễn không còn nữa.

Ngài Hakuo liền nhận cô làm đệ tử.

Để ghi nhớ sự kiện này, Ryonen đã viết mấy câu thơ phía sau một tấm gương soi nhỏ:

Ta đốt hương khi theo hầu hoàng hậu,
Để làm thơm những y phục đẹp xinh.
Giờ đây làm kẻ hành khất không nhà,
Ta đốt khuôn mặt để bước vào cửa thiền.

Khi ni sư Ryonen sắp lìa bỏ thế giới này, bà để lại một bài thơ khác:

Sáu mươi sáu mùa thu,
Từng đổi thay trước mắt.
Ta đã nói đủ rồi,
Về ánh sáng vầng trăng.
Thôi đừng hỏi thêm nữa,
Chỉ lắng nghe thông ngàn,
Và những cây bách hương
Khi không có gió!

(Trích 101 câu chuyện thiền, Nguyên Minh dịch)

Bình:

Ở đời người ta thường chạy theo danh và sắc, khi vào đạo để rũ bỏ danh sắc cũng cần đòi hỏi cả một quá trình tu luyện để mới giải trừ được nghiệp ái dục này.

Là một người sống trong giàu sang danh vọng, việc từ bỏ tất cả danh sắc của Ryonen không phải là hành động dễ dàng đối với nhiều người khi đang trên đỉnh cao của danh sắc.

Biết sắc vốn là giả, không muốn làm xao động cho những người cùng tu, và muốn chứng tỏ tâm tha thiết cầu đạo của mình, Ryonen đã đem bàn ủi nóng ủi vào mặt mình là hành động của một người thượng căn không thua gì ngài Huệ khả chặt tay mình để dâng lên Tổ Sư Đạt Ma để cầu mong khai tâm mà không phải ai cũng làm được.

Thói thường người ta hay bám theo danh và sắc, nhất là phái “đẹp”, để được đẹp hơn người ta càng trau chuốc hoa hương và làm đủ mọi cách để tôn vinh bản thân. Những người chưa đẹp thì phải đi thẩm mỹ để chỉnh sửa mắt môi…để thu hút người khác. Ở phương Tây nam giới bây giờ cũng không thua gì nữ giới, cũng nước hoa xông ướp vào mình, cũng đua nhau đi chỉnh hình để tìm được công việc dễ dàng như phái nữ và để được phái nữ yêu mến hơn. Xem ra nghiệp ái dục thật là mãnh liệt, cho nên trong kinh Tứ Thập Nhị chương đã thốt lên rằng: “…nếu trên đời này có hai thứ như thế chắc không ai có thể hành đạo được.”

Ngoại hình là một vấn đề quan trọng đối với đời sống con người, đàn ông hay đàn bà có ngoại hình đẹp dễ gặp may mắn và làm thay đổi tương lai của bản thân (dù không hoàn toàn tuyệt đối). Dù là hư danh nhưng sắc dục đã điều động và chi phối vũ trụ thế giới. Xưa nay, không ít các Đế vương, các Chính trị gia chỉ vì sắc đẹp của đàn bà mà khiến cho mình tan thân mất mạng, quốc gia nghiêng ngửa, lao đao… (bộ mặt của thế giới được điều động bởi nữ sắc - nếu mỹ nhân có tâm đức đó là cái phước cho nhân loại).

Trong Phật giáo để bước qua khỏi danh sắc phải có quá trình dụng công bằng phương pháp quán chiếu về các pháp vô thường (không bền), khổ và vô ngã (không có tự ngã). Nếu bất cứ pháp nào mà còn hữu ngã, còn đối đãi thì không phải là pháp Phật. Trước giờ thành đạo, Đức Thích Tôn cũng đã vượt qua cửa ải chấp thủ của những ma sắc nguy hiểm này.

Trong Thiền Tông để đạt được cảnh giới giải thoát, hành giả cũng theo trình tự qua ba giai đoạn như Thiền sư Duy Tín đã trải qua

“Trước khi gặp thiện tri thức, tôi thấy núi sông là núi sông.
Sau khi gặp thiện tri thức chỉ dạy, tôi thấy núi sông không phải là núi sông.
Sau ba mươi năm, tôi thấy núi sông là núi sông”
.

Quá trình này cũng có thể được phân chia cho ba căn cơ:

Hạ căn: khi mới tu còn chấp sắc là sắc, còn có tâm phân biệt sắc nam sắc nữ (còn tham ái).

Trung căn: Sau thời gian học Phật, thì thấy sắc vốn là bất tịnh, vô thường là giả hợp.

Thượng căn: Nhiều năm tu luyện thì không còn thấy có và không nữa. Không còn tâm phân biệt chi phối, hoàn toàn làm chủ được ý niệm.

Trình độ xả ly thủ ái của hành giả như thế nào còn tùy thuộc về cái thấy danh và sắc của hành giả.

Người đệ tử Phật dù tăng hay tục, việc cơ bản và đầu tiên phải tu tập ngay nơi tự thân, phải quán chiếu thân, phải nhàm gớm thân thúi của mình mới có thể liễu ngộ được Phật pháp.

Trong kinh Thân Quán Đức Phật bảo các thầy Tỳ kheo phải quán thân mình là thân dơ ác: “… thân nầy bao gồm thịt da máu mủ tạo thành, chất chứa đầy phân dãi. Tự quán rằng thân nào có sạch sẽ, thường có chín lỗ ác bệnh không sạch chảy ra, nó thường cùng với oan gia cấu kết cho đến già chết, và gồm nhiều thứ bịnh tật, đâu không là ác? Thân đến lúc mất, bấy giờ không còn dùng đựợc, chỉ còn đem chôn tử thi dưới đất vì sợ chồn sói nhận ra, có đâu không thấy hổ thẹn lại thích tham dâm…”

Nếu người nam hay nữ còn đắm chấp thân tướng của mình, cho rằng thân mình tốt hơn thân kẻ khác, thân nam tốt hơn thân nữ hay thân nữ tốt hơn thân nam là đều còn u mê. Trong kinh Kim Cang đức Phật phủ nhận tất cả sắc tướng rằng “phàm sở hữu tướng giai thi hư vọng” (tất cả các tướng đều là dỏm), chấp tướng không những là tâm hư vọng mà là nguyên nhân dẫn đến những dục vọng làm nhân cho sinh tử luân hồi mà trong kinh Lăng Nghiêm đức Phật đã dạy “dâm tâm bất trừ, trần lao bất khả xuất”.

Muốn bước ra khỏi trần lao, muốn liễu ngô Phật pháp bạn phải can đảm từ bỏ những gì mình yêu quí nhất, phải lột bỏ được danh sắc hư ngụy đang đeo bám trên tấm thân giả hợp sinh lão bệnh tử này.

Đó cũng là sự liễu ngộ, sự trở về đầy huyền bí và thi vị của thiền Ni Ryonen:

“…Về ánh sáng vầng trăng.
Thôi đừng hỏi thêm nữa,
Chỉ lắng nghe thông ngàn,
Và những cây bách hương
Khi không có gió!


BÀI ĐỌC THÊM:

MỸ NỮ TỰ HỦY SẮC ĐẸP ĐỂ XUẤT GIA - Thích Minh Trí biên dịch




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/04/2016(Xem: 3780)
Một đại văn hào người Pháp đã viết câu “Con người không bao giờ tắm hai lần trên một dòng sông“, nhưng Dòng sông Tịnh Độ của tôi không phải là “Dòng sông định mệnh“ của Quỳnh Dao, nên đã chan hòa đến lần thứ 11 tại chùa Linh Thứu rồi mà vị giải thoát vẫn ngời ngợi tỏa sáng. Vâng, khóa Huân Tu Tịnh Độ kỳ 11 từ ngày 14 đến 20 tháng 3 năm 2016 đã có khoảng 180 Phật Tử đa số từ phương xa và 20 Chư Tăng Ni đến tham dự. Đặc biệt vẫn là HT Phương Trượng chùa Viên Giác Thích Như Điển đến khai mạc và giảng Pháp, để phần hướng dẫn khóa tu cho Thầy Hạnh Giới một chuyên gia hay nói đúng hơn là một Hành Giả chỉ dẫn chúng ta con đường ngắn nhất và nhanh nhất đến gặp Đức Phật A Di Đà.
10/03/2016(Xem: 10401)
“This is SBS Radio The many voices of one Australia Broadcasting in Vietnamese Đây là SBS Radio Và sau đây là chương trình phát thanh Việt Ngữ”... Đó là nhạc hiệu mở đầu của Ban Việt Ngữ SBS Radio vào thập niên 1990 - mười lăm năm sau ngày đàn chim Việt tan tác lìa bỏ bầu trời quê hương. Mới đó mà đoàn lưu dân lê bước chân mục tử đã 40 năm rồi! Với hành trang tị nạn trên vai khi đến với SBS Radio, trong tôi vẫn còn đọng lại những thanh âm thảng thốt, kinh hoàng, van xin cầu khẩn của các thuyền nhân đồng hành khi gặp hải tặc Thái Lan, chuyến vượt biên bất thành đưa những con người sắp đến bờ tự do quay trở về quê cũ để rồi tất cả đều bị bắt vào tù, dù là trẻ con còn bồng ẳm trên tay. Đất nước tôi như thế đó, những con người còn lại trên quê hương sống vất vưởng đọa đày, những con người bỏ nước ra đi không nhìn được trời cao mà lại chìm mình dưới lòng biển lạnh
10/03/2016(Xem: 10373)
Năm 1979 thường được coi là điểm khởi đầu của nền báo chí Việt ngữ tại Úc khi số đầu tiên của tờ Chuông Sài Gòn được phát hành tại Sydney. Tờ báo này xuất bản 2 tuần một lần và sau đó đã trở thành một tuần báo. Trong vòng bốn thập niên qua, truyền thông tiếng Việt đã trải qua thời kỳ phát triển không khác chi truyền thông của các cộng đồng văn hóa đa nguyên khác, theo nghĩa là ngành này đã phát triển về số lượng cũng như sức mạnh theo đà phát triển của cộng đồng nói tiếng Việt.
01/02/2016(Xem: 15693)
“Đế Minh” là cháu ba đời Vua“Thần Nông”tuần thú, chuyển dời phương nam Đến núi Ngũ Lĩnh, (Hồ Nam) (1) Gặp nàng “Tiêngiới” lấy làm hân hoan Kết duyên chồng vợ vẹn toàn Sinh con: “Lộc Tục” hiền ngoan nhất đời “Đế Minh” quyết định truyền ngôi
31/01/2016(Xem: 3594)
Dì Trang là em của má tôi. Nếu không kể bên phía má, tôi có thể gọi dì bằng vai thấp hơn. Đơn giản, ba tôi là chú của chồng dì Trang. Khi ba tôi rời Hà Tĩnh để vào Nam, vào một thời xưa lắm, nghĩa là nói kiểu dân gian là năm một ngàn chín trăm gì đó, có dẫn theo một người cháu.
31/01/2016(Xem: 2965)
Tôi trở về Huế với một tâm trạng nôn nao bồi hồi! Hơn 30 năm sau mới nhìn lại Huế thân yêu, nơi đã cho tôi mật ngọt của thời mới lớn! Phi trường Phú Bài vẫn vậy, vẫn u buồn ảm đạm vào mùa mưa lụt, dù đã mấy mươi năm qua cũng chẳng rộng lớn, sửa sang gì hơn. Đã thế, tôi đặt chân xuống phi trường khi trời đã về chiều nên càng hiu hắt buồn. Niềm vui rộn ràng chỉ bừng lên khi thấy một số bạn cũ đã đứng chờ sẵn bên ngoài. Chúng tôi chỉ biết ôm nhau trong tay với bao niềm cảm xúc, nhìn nhau miệng cười mà nước mắt rưng rưng!
30/01/2016(Xem: 6192)
Có một y viện huyện thuộc vùng cao nguyên Thái Lan, do giao thông bất tiện nên bệnh nhân phải đi từ sáng sớm đến bệnh viện để khám và kịp quay về nhà trước khi trời tối.
20/01/2016(Xem: 4658)
Xin có vài dòng tâm tư nơi đây. Truyện này có một tựa đề rát là phim bộ Hàn Quốc. Tác giả đã nghĩ tới các tựa đề khác cho nhẹ nghiệp tình -- thí dụ như “Tay Ai Chưa Nắm Một Lần” hay “Dây Chuông Ai Níu Bên Trời” – thì lại rất là cải lương, và chẳng hấp dẫn tí nào. Truyện này có thể có vài dị bản khác nhau. Nguyên khởi là viết cho Báo Xuân Việt Báo theo nhu cầu phải có chất lãng mạn thế gian. Cùng lúc, gửi cho nhà thơ Kinh Bắc để đăng trên ấn bản xuân tạp chí Suối Nguồn (của Trung Tâm Dịch Thuật Hán Nôm Huệ Quang), với lời dặn dò rằng xin nhà chùa tùy nghi sửa đổi, cắt bớt, hay thêm vào sao cho phù hợp với chánh pháp.
15/01/2016(Xem: 12636)
Ngày xưa ở tại ven sông Có chàng khỉ sống ung dung một mình Mạnh sức lực, lớn thân hình Thêm tài nhảy nhót tài tình kể chi. Giữa sông có đảo đẹp kia Bao nhiêu cây cối rậm rì xanh tươi Trái cây ngon ngọt khắp nơi Nào hồng, nào chuối chào mời khỉ ta. Từ bờ tới đảo khá xa May thay có đá nhô ra giữa dòng
13/01/2016(Xem: 14142)
Việt nam nước tôi có chiều dài lịch sử thăng trầm trãi qua nhiều thời kỳ chống giặc ngoại xâm để giữ vững và mở rộng biên cương tổ quốc. Rồi qua hơn ba thập niên kể từ năm 1945 đến năm 1975 của thời hiện đại lại thêm một lần nữa Tổ quốc ngập chìm trong khói lửa chiến tranh tương tàn mà cho đến tận ngày nay vết thương vẫn chưa chữa lành bởi vì người ta nhân danh chủ nghĩa này lý thuyết nọ là những ý thức hệ ngoại lai.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]