Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chiều tà

23/05/201209:52(Xem: 2828)
Chiều tà

                          hoang hon4                   

Cách chùa khoảng một trăm mét, xéo về phía tây, dòng sông chảy hiền hòa uốn quanh thôn làng, bao bọc gần hết chu vi ba mặt của xóm nhỏ, chừa mặt tây trông ra ngọn núi hình dáng như người nằm ngủ nghiêng mà ở khúc đuôi của nó như một bàn chân đang chỉa năm ngón lên trời.

Ba người ngồi trên bãi cát hẹp của bờ sông. Phía trên đầu, gió chiều đang luồn qua lùm tre tạo ra những âm thanh xào xạc dễ chịu.

Ông thầy chùa bận áo màu nâu đậm, quần màu lam, ngồi xếp bằng trên mặt cát, đang lắng nghe Phụng nói.

Giọng nàng thanh thoát, trong như tiếng chuông ngân. “Cho nên người ta thường nói nghe thấy, xem thấy…Bản nhạc mà ban nảy chúng ta đã nghe trong liêu của thầy nếu nghe bằng đôi tai biết thưởng thức âm nhạc, thầy sẽ  thấy bản nhạc đang diễn tả một lễ hội dân gian nào đó bằng những âm điệu vui tươi, náo hoạt và những tiết tấu rộn ràng. Chúng ta nghe thấy bản nhạc đó, nghĩa là chúng ta đã cảm thụ được cái hồn của nhạc phẩm, chúng ta cảm nhận được niềm hân hoan hiện rõ trong những nốt nhạc thánh thót một cách tưng bừng…” Phụng ngưng nói, đưa mắt nhìn ông thầy chùa.

Khuôn mặt vuông và hàm râu quai nón đã cạo được vài ngày lúc này nổi lên thành một cái quai tua tủa quanh mặt khiến ông thầy nhác trông như hòa thượng Lỗ Trí Thâm trong truyện Thủy Hử.

“Cô Phụng nói tiếp đi. Tôi đang nghe đây mà,” ông thầy chùa mỉm cười hiền từ nói, ‘Anh Sơn cũng đang nghe cô nói đấy, phải không anh Sơn?” ông quay qua người đàn ông đang ngồi ôm chai rượu giấu bên dưới hai đầu gối.

“Vâng,” người đàn ông gục gặc đầu nói, “Phụng nói chuyện lôi cuốn và hấp dẫn lắm đấy. Thảo nào học trò chẳng mê cô giáo dạy Văn. Hãy nói tiếp cho thầy Hải và anh nghe đi chứ. Ừ, cái chuyện thấy biết…

Mặt trời buổi hoàng hôn đang gom vạt nắng cuối cùng đỏ ối trên cỏ cây và bờ sông, rải đều các tia nắng nhảy chấp chới trên mặt nước.

“Người ta nghe thấy bản nhạc này diễn tả điều gì,” Phụng nói tiếp, “cũng như người ta xem thấy bức tranh này vẽ cái gì, hay đọc thấy bài thơ này nói lên điều gì. Có thấy là có ngộ, phải không thầy?” nàng bật cười, khẽ đập bàn tay nhỏ nhắn, thanh tao vào bờ vai vuông vức của ông thầy chùa. “Cũng hay, tiếng Anh nói tôi hiểu là I see, mà see là thấy. I see…tôi hiểu. Vậy thì thấy là ngộ phải không thầy?”

”Có thấy có ngộ,” ông thầy chùa lẩm bẩm, mỉm cười.

Sơn bỗng nói, “Ngày mai ba người chúng ta sẽ chia tay nhau, chẳng biết lúc nào còn hội ngộ vui vẻ như vầy. Phụng ra nước  ngoài, tôi xuôi xuống miền nam, mỗi người đều có công việc riêng để làm, không biết trong bao lâu, nhưng có lẽ là lâu…lâu lắm đấy…Thầy thì vẫn trụ lại với ngôi chùa và dòng sông yên bình này. Mong rằng thầy vẫn an trụ…”

“An trụ như nhiên,” ông thầy chùa cười nói, “Tôi sẽ còn gặp lại ông Sơn và cô Phụng mà. Đường đời dày đặc đầy bất trắc, ai biết được sẽ như thế nào mà chúng ta phải luận bàn lôi thôi nhỉ? Nhưng tôi hy vọng ba người chúng ta sẽ luôn gặp lại nhau dù ở trong một tâm thức nào đi nữa.”

“Ừ phải, tâm thức đôi khi nhảy múa loạn xạ không cùng,” Sơn nói với giọng trầm hẳn xuống, “Đôi khi nó nằm yên như dòng sông hiền hòa kia, đôi khi nó nhảy lồng lên như trận gió ban nảy vừa tấp vào chúng ta…”

“Ừm, đó là do tâm cảnh,” ông thầy chùa chậm rãi nói, “Cảnh nảy sinh thức. Thức sẽ tùy duyên biến hóa. Bức tranh vân cẩu của đời người mà chúng ta nên sống tương thuận theo nó chứ không phải tương sinh tương diệt để mà…”

“Mà chết tức thì ngay bây giờ hả thầy?” Phụng bật cười.

“Chết ngay đứ đừ,” ông thầy cười ha hả.

Nắng hoàng hôn đã được gom về ở tận chân trời. Không gian mờ tối và lắng đọng quanh bờ sông đang êm đềm trôi vào giấc ngủ.

Ba người lục tục đứng dậy, đi ngược lên dốc, về phía ngôi chùa còn thấy được những cái mái cong vút chọc lên trời giữa những tàng cây bồ đề sum suê. Bản trường ca của dế đang bắt đầu hòa vang và lẩn khuất đâu đó bên dưới chân họ.

Phụng níu tay ông thầy nói, “Kìa, thầy bị rụng mất mấy cái răng cửa vậy?”

Ông thầy cười, đưa tay lên miệng rờ rẩm rồi nói khẽ, “Ừ, mấy cái răng cửa bị luật vô thường chi phối đó mà!”


    Vĩnh Hiền 69 Nguyễn Thái Học, Nha Trang. ĐT: (058) 3874153

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/10/2010(Xem: 3306)
Hàng ngàn năm trước tây lịch, khi thổ dân Dravidian còn ngự trị khắp lãnh thổ Ấn Độ cổ thời, vùng phía tây Hy Mã Lạp Sơn là lãnh địa của rắn. Vốn là vùng rừng núi bạc ngàn nằm trên nóc nhà thế giới, Hy Mã Lạp Sơn là nơi thâm u bí hiểm với sơn lam chướng khí trùng trùng và vô số loài thú dữ cư ngụ sẵn sàng lấy mạng người để làm thức ăn. Thời đó, thổ dân Dravidian không có đủ vũ khí hùng mạnh để chống cự với các loài mãnh thú và tự bảo vệ mình. Từng người vào rừng săn tìm thức ăn đã không thấy trở về. Độc địa nhất không phải chỉ là những hổ, cọp, gấu, beo nằm lồ lộ chờ mồi bên bờ suối, dưới gốc cây hay trong khe đá, mà ngay bên dưới lớp lá khô mục của đường rừng là những loài rắn nguy hiểm chực chờ bước chân người.
16/10/2010(Xem: 2653)
Trong thiền không có đầu đuôi, khúc chiết, lý luận. Nó đập vỡ lý luận. Đó là thế giới lý tưởng của câu thơ lớp ba mồ côi luận lý. Thế giới của những câu cuối lấc cấc, mẹ gà con vịt. Đừng bắt tôi giải thích; hãy lang thang với tôi trong câu cuối của dăm ba chuyện thiền nổi tiếng.
16/10/2010(Xem: 2812)
Trong đời, tôi đã thấy mặt trăng lần nào chưa? Nhìn trăng, tôi nhìn cả đời. Nhưng thấy trăng, tôi không dám nói chắc. Khi tôi nhìn trăng trước mắt, tôi nghĩ đến trăng nửa khuya loáng thoáng trên tàu lá chuối sau vườn cũ. Tôi nghĩ đến đèn trung thu lúc nhỏ. Tôi nghĩ đến cái chõng tre giữa sân trên đó, ngày xưa, tôi nằm nhìn mây bay. Nhìn trăng, tôi không thấy trăng. Chỉ thấy lá chuối, chõng tre. Thấy cả tôi với trẻ con hàng xóm nô đùa. Có lần tôi trốn tìm với chúng nó, bị lộ, tôi nhảy bừa vào bụi tre, bất ngờ có đứa con gái đã ngồi sẵn trong đó. Tôi sợ hoảng, toan vọt ra thì nó kéo tay tôi lại, ấn vai tôi xuống, cười đồng lõa. Trong loáng thoáng của cây lá, tôi thấy hai cái răng cửa của nó sáng ngời ánh trăng. Bây giờ, nhìn trăng non, tôi thấy cái miệng và hai cái răng. Tựa như hai cái răng của nó phát ánh sáng và in hình miệng nó lên bầu trời.
16/10/2010(Xem: 2172)
Ngày xưa, một nhà quan lang họ Cao có hai người con trai hơn nhau một tuổi và giống nhau như in, đến nỗi người ngoài không phân biệt được ai là anh, ai là em
16/10/2010(Xem: 2028)
Ngày xưa, vào hồi Tây Sơn khởi nghĩa, có một chàng trai người vùng Đồng Nai, có tài cả văn lẫn võ, đã vung gươm hưởng ứng sự bất bình của thiên hạ.
16/10/2010(Xem: 1853)
Ngày xửa... Ngày xưa... Có một cô bé rất giàu lòng yêu thương. Cô yêu bố mẹ mình, chị mình đã đành, cô còn yêu cả bà con quanh xóm...
15/10/2010(Xem: 2244)
Một danh tướng về già muốn tặng thanh kiếm báu của mình cho một tướng quân ở xa. Ông giao trọng trách đó cho một gia nhân, cũng là một tay kiếm xuất chúng. Cẩn thận như vậy, ông vẫn không yên lòng, nghĩ rằng kiếm sĩ này chưa chắc đã đủ chín chắn để giữ kiếm không bị cướp dọc đường. Thanh kiếm không những quý về chất thép mà còn quý vì chuôi kiếm có nạm vàng và ngọc vua ban.
13/10/2010(Xem: 1699)
Có hai vợ chồng một ông già tên là Dã Tràng. Trong vườn họ có một hang rắn. Thường ngày làm cỏ gần đấy, ông già vẫn thấy có một cặp vợ chồng rắn...
13/10/2010(Xem: 3283)
Vào Thứ Sáu, ngày 8 tháng 10 năm 2010, Ủy Ban Giải Nobel Hòa Bình Na Uy đã công bố giải Nobel Hòa Bình năm 2010 được trao cho Lưu Hiểu Ba. Lưu Hiểu Ba, sinh năm 1955 tại thủ phủ Trường Xuân của tỉnh Cát Lâm ở đông bắc Trung Quốc, là nhà tranh đấu bất bạo động cho tự do, dân chủ và nhân quyền tại Trung Quốc. Ông đã từng tham gia phong trào sinh viên đấu tranh trong biến cố Thiên An Môn năm 1989 và sau đó liên tục bị sách nhiễu, quản chế tại gia và tù tội. Ngày 8 tháng 12 năm 2008, ông đã bị bắt vì cùng một số nhà tranh đấu dân chủ và nhân quyền Trung Quốc công bố Hiến Chương 2008 đòi xóa bỏ chế độ cai trị độc đảng để tiến tới một xã hội dân chủ cho Trung Quốc. Hiến Chương 2008 cho đến nay đã có hơn 8,500 người tham gia ký tên. Vì Hiến Chương 2008, Lưu Hiểu Ba đã bị chính quyền cộng sản Trung Quốc kết án 11 năm tù. Hiện ông vẫn còn ngồi tù ở Liễu Ninh, Trung Quốc.
11/10/2010(Xem: 2197)
Không ngờ tôi lại có được duyên lành đi chung với Thầy Trụ Trì Chùa Tâm Giác một đoạn đường khá xa. Tôi vẫn thường hay đến chùa, vãn hay gặp Thầy nhưng lúc nào Thầy cũng „Phật sự đa đoan“ nên tôi có rất ít thì giờ gần gũi và tiếp xúc với Thầy nhiều. Chuyến đi này thật hữu ích cho tôi vô cùng, tôi đã nghe và thấm nhuần được rất nhiều điều về Giáo lý Phật Đà - một niềm tin mà tôi luôn luôn tôn thờ và say mê khi vừa mới lớn cho đến tận bây giờ và cũng nhờ Thầy mà đoạn đường đi về 260 km không còn xa vời vợi nữa.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567