Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bồ Tát Đâu Xa?

11/02/201203:57(Xem: 3139)
Bồ Tát Đâu Xa?

red_rose_46

 

     Nhìn lịch treo trên tường làm tôi nhớ lại chỉ còn đúng 60 ngày nữa là đến 30 tháng 4, tròn 40 năm ngày lịch sử Việt Nam sang một trang sử khác. Trang sử ghi lại hàng triệu kẻ vỗ tay reo mừng chiến thắng, tước đoạt được đất đai, tài sản của cải người miền Nam. Trong lúc đó cũng có hàng chục triệu người mắt lệ đổ thành sông; và cũng có hàng chục ngàn người bị giam cầm trong lao tù cải tạo; cũng có đến hàng vạn thây người đã nằm sâu dưới lòng đại dương. Chưa kể vài triệu người đang sống lưu vong ở hải ngoại cũng bị chính quyền cộng sản Việt Nam hồi đó xếp vào thành phần phản động, du đảng, đĩ điếm, cướp giựt, lười biếng lao động… nên phải trốn đi. Cộng sản đâu biết rằng, hàng triệu người muốn đi tìm hai chữ Tự Do bằng mọi giá mà thôi.

     Sau 30.4.1975 đồng bào miền Nam đã sống trong sợ hãi kinh hoàng. Bằng cấp của những người trí thức không còn giá trị nữa. Đào, bạn tôi là một trong thành phần nói trên phải xếp bằng Bác sĩ vào xó tủ rồi ra chợ bán từng gói bánh kẹo để kiếm sống. Đào và tôi là đôi bạn thân từ thời tiểu học tóc cột đuôi gà, rồi suốt mấy năm liền gắn bó với nhau trong thời trung học. Sau khi Tú Tài xong thì mỗi ngưới mỗi ngả, hai đứa chọn ngành riêng biệt nên xa nhau từ dạo đó.

     Mười năm bao cấp từ 1975, người dân không đủ gạo nên mỗi bữa ăn phải độn thêm bo-bo, mì sợi. Nhu yếu phẩm phải xếp hàng mua theo hộ gia đình tính từ trăm gram. Đời sống quá đói khổ, viễn ảnh tương lai thì mờ mịt. Người dân miền Nam, nếu không phải là „con cháu Bác“ thì bị chụp trên đầu chiếc mũ „ngụy quân, ngụy quyền“. Không còn lối thoát nào nữa, vợ chồng bạn tôi cũng tìm đường vượt biển. Gia đình tôi cũng vậy, nhưng „mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên“ dự tính bất thành, tôi đành ra chợ trời kiếm sống.

     Tình cờ một buổi sáng nọ hai vợ chồng bạn tôi đang đi lang thang ở chợ Bình Tây, Sài Gòn bất ngờ gặp lại nhau vừa mừng vừa tủi. Bạn tôi hỏi ngay:

      - Mày làm gì ở đây?

      - Tao bán hàng tạp hóa, nhưng không có vốn nhiều vì trong chuyến vượt biên, tụi tao bị cướp sạch vàng bạc rồi. Đây là sạp của tao chỉ tư vuông 2 mét thôi. Ở trên sạp bày hàng, ở dưới để cất hàng…

     - Mày bán loại hàng này nặng nề vất vả quá. Tại sao không tìm thứ khác mà bán?

     - Đây là cái sạp do hai chị em bạn thân cùng dạy chung trường thuở trước sang giúp cho mình để ngồi gần nhau cho vui vì đã cùng chung số phận vượt biên thất bại trở về. Nhiều lúc mình cũng rất buồn vì ở đây người ta nhiều vốn có sạp lớn, còn mình… thì hết vốn!

     - Sạp nhỏ xíu như vậy làm sao bồ cất hàng đủ?

     - Khi nào có nhiều hàng thì gởi trong sạp Liễu bạn thân của mình, nhưng bột ngọt và đường hóa học là đồ quốc cấm nên mình không gởi được…

     - Bồ yên tâm, nếu quản lý chợ cho tao sạp bán bánh kẹo thì tao sẽ cho mày giấu đồ trong sạp của tao.

     - Ủa, những chiếc sạp có cửa sắt kéo trong chợ chỉ dành cho gia đình cán bộ, cách mạng, liệt sĩ mà làm sao mày được?

     - Như mày biết đó, anh Bê, chồng tao là Bác sĩ chuyên trị bệnh tim. Bệnh viện họ rất cần, anh ấy đã đi làm lại vài tháng nay và đang chữa trị cho một cán bộ cao cấp thoát chết. Họ thấy ông xã mình hiền lành, từ tốn và hết lòng săn sóc chữa trị cho họ mà không có một điều kiện nào hết, nên ông ta hứa sẽ giúp đỡ cho tụi mình có một chỗ mua bán kiếm sống thêm mới đủ. Ông xã mình chán quá vì lương bác sĩ chỉ có „ba cọc, ba đồng“, nên anh ấy giấu không giới thiệu mình là Bác sĩ Nội Khoa để mình ở ngoài mua bán thêm mới đủ lo cho cả nhà.

     Sau đó không lâu, bạn tôi được nhận một sạp rộng lớn trong chợ Bình Tây. Bạn tôi giấu tông tích như vậy thế mà những bạn hàng trong chợ lại biết được nghề thật, nên mỗi khi gia đình có người đau ốm hay bệnh tật họ đều đến nhờ, vì thời đó phòng mạch tư rất hiếm, đến bệnh viện thì phải xếp hàng dài chờ đợi và tốn nhiều tiền. Bằng tất cả tấm lòng của vị lương y bạn tôi luôn sẵn sàng giúp đỡ họ mà không nhận một thù lao nào cả. Từ đó bạn tôi trở thành vị „bác sĩ tư“ cho những bạn hàng trong chợ, khám và viết tên thuốc cho họ tự đi tìm mua lấy. Sạp bán bánh kẹo trở thành „phòng mạch kín“.

     Để tránh tai mắt của đám cách mạng „30 tháng Tư mang băng đỏ“ kiểm soát, hằng ngày tôi giả vờ đến sạp để tâm tình với Đào, nhưng thực tế là để lấy hàng „quốc cấm“ giấu trong sạp. Hai đứa chỉ trao đổi những chuyện cần thiết. Có chuyện vui mà cũng có chuyện buồn, rồi nghe thấy thêm nhiều chuyện thương tâm làm cho lòng người chùng xuống. Đào than:

     - Ông xã mình muốn mở phòng mạch tư bên quận 8 để sau mỗi chiều ra khỏi bệnh viện là đến phòng mạch luôn và phải mướn một cô y tá phụ giúp. Mình có hỏi anh ấy tiền đâu để trả lương cho y tá. Anh bảo sẽ bán thuốc thêm rồi lấy tiền lời đó để chi trả.

     Tôi hỏi:

     - Sao ông xã mày không mở phòng mạch ở mấy quận gần đây mà phải qua bên quận 8 xa xôi vậy?

     - Anh ấy bảo ở quận 8 có nhiều người dân nghèo khổ, cần sang đó để tìm cách mở phòng mạch giúp đỡ bà con. Mình cũng bằng lòng để anh ấy làm đúng theo ước nguyện của ảnh. Thôi thì cũng đành thử vài tháng xem kết quả thế nào, cuối tháng trả tiền thuê phòng và lương y tá có còn dư lại hay không?

     Sau đó Đào có tâm sự, mấy tháng đầu tiền khám bệnh và bán thuốc đủ tiền trả lương cho y tá và chỉ dư chút xíu thôi. Phòng mạch mới mở, bà con chưa biết nhiều, nhưng dần dần tiếng đồn lành về bác sĩ Bê lan rộng ra, nên nhiều bệnh nhân ở xa cũng tìm đến ngày càng đông, ngược lại tiền thu vào thì lại ít đi. Cuối tháng anh ấy phải xin tiền bán bánh kẹo của mình để bù đắp vào phòng mạch và đi mua thuốc thêm. Mình thắc mắc hỏi tại sao? Anh ấy cho biết, phần đông bệnh nhân thuộc thành phần lao động  nghèo khổ, thân gầy còm, quần áo tả tơi nên anh ấy không nỡ lấy tiền khám bệnh mà chỉ lấy đủ tiền vốn mua thuốc thôi. Thỉnh thoảng có người quá nghèo khóc lóc, than thở không có tiền để trả tiền thuốc nên anh cũng cho luôn. Bởi vậy mình đề nghị anh ấy nên đóng cửa phòng mạch, nhưng anh nài nỉ xin giữ lại phòng mạch để giúp đỡ dân nghèo. Mình đồng ý, nhưng phải cho cô y tá nghỉ việc; thay vào đó mình phải đóng cửa sạp bán bánh kẹo sớm hơn để cùng anh ấy đến phòng mạch. 

     Không hiểu sao, từ khi mình ra phụ phòng mạch thì gian hàng bánh kẹo của mình lại bán đắt hơn. Khách hàng ở đâu xa cũng đến mua, còn lò bánh ngon cũng ưu tiên giao hàng cho sạp mình. Nhờ vậy mình có tiền lời khá hơn để đắp vào phòng mạch. Phải chăng Trời Phật, Chư Thiên thương tấm lòng của vợ chồng mình mà đưa đẩy tài lộc đến cho. Thường thường buôn bán ở chợ, muốn đông khách thì phải biết giành giựt cạnh tranh, nhưng riêng mình chẳng muốn hơn thua gì cả, chỉ dành bớt thì giờ để khám bệnh cho bạn hàng chung quanh. Âu đó cũng là lý do người ta giúp đỡ lại mình…

*

*   *



anh be

 

    Anh Bê ơi,

    Tôi không làm sao quên được thiện tâm của anh thể hiện qua cuộc sống giản dị với nét mặt hiền hòa lúc nào cũng tươi cười, nhẹ nhàng, đằm thắm.

     Nhớ những lần về Việt Nam thăm gia đình, anh và Đào đón tôi về nhà bằng chiếc thuyền nan nhỏ. Anh chở tôi và Đào từ bờ bên này của vùng nước ruộng mênh mông đầm lầy sang thăm cái nhà nho nhỏ của anh bên quận 8, chung quanh có cây ăn trái đủ thứ xoài, mận, ổi, dừa… Thật là thú vị và rất dễ thương khi ngồi ăn cơm ngoài vườn với mẹ của Đào là bác Mộng Cầm, bác già rồi mà vẫn còn đẹp, tên tuổi của bác đã đi vào văn chương thi phú. Hình ảnh đó vẫn còn in sâu trong lòng tôi một tình bạn qua nhiều biến chuyển của thời gian -chung lớp, chung trường, rồi chung chợ- vẫn còn đậm đà như ngày nào và vô cùng sâu lắng thiết tha, không dễ gì quên được!

      Trong cõi hư vô, nhân lễ giỗ lần thứ năm của anh với lòng ngưỡng mộ và tôn kính về sự hy sinh cao cả của người thầy thuốc, thật đúng với nghĩa „lương y như từ mẫu“. Ở đời cũng có nhiều người làm từ thiện là lúc người ta có dư hoặc có phương tiện. Trong thời buổi „gạo châu, củi quế“ người ta tranh nhau từng đồng bạc để kiếm sống, còn anh cố nhẫn nhục với vợ bằng cách này hay bằng cách nọ để có phương tiện mà cứu độ dân nghèo. Bồ Đề tâm của anh thật là kiên cố. Con người càng ngày càng nhiều kiến thức, nhưng cũng càng dễ thờ ơ; có những bác sĩ đã bán rẻ lương tâm, lường gạt bệnh nhân mà không sợ hậu quả. Họ đã quên lời thệ nguyện với thần Hippocrate và Hải Thượng Lãn Ông trước khi ra trường. Thật mỉa mai thay! Theo nhà Phật, nhân quả rành rành, đã có nhiều trường hợp bác sĩ bị bệnh nhân báo oán ngay hiện tiền.

     Anh Bê ơi,

     Anh đã sống và thực hiện lời thề đúng theo tiếng nói của trái tim mình, không tính toán thiệt hơn và cũng không vì danh lợi. Anh đã trang trải tấm lòng tử bi cứu độ vô bờ cho những người nghèo khổ bất hạnh. Anh ra đi biết bao nhiêu người thương tiếc. Những người anh giúp quá bần hàn cơ cực chẳng có gì để đền ơn anh, nhưng trong lòng họ luôn nhớ nghĩ đến anh là vị Bồ Tát tại thế.

      Mặc dù anh không đi trọn con đường dài của kiếp sống này với bạn tôi, nhưng tôi thầm cảm ơn anh đã để lại cho bạn tôi một trái tim chan chứa tình yêu thương bất biến vẫn còn lưu mãi trên cõi đời này. Giờ đây vợ con anh đang sống an nhàn, phước lộc đầy nhà tự dưng đến, không lấy của ai và cũng không bon chen mà được. Lòng bác ái và từ bi độ lượng của anh đã đưa gia đình anh đến cõi phúc.

     Tôi đã trôi đi trong những dòng suy nghĩ, chắc chắn anh là một vị Bồ Tát đã thị hiện trở lại cõi Ta Bà trên trần thế để tiếp tục con đường cứu độ cho những người bất hạnh. Quê hương ta còn dẫy đầy sự bất công, nhiều mảnh đời đáng thương tâm, bệnh tật và đói khổ đang sống trong các vùng xa xôi hẻo lánh ở quê nhà. Chư vị Bồ Tát tùy yêu cầu cứu độ mà thị hiện nhiều hình tướng khác nhau. Chúng sanh bao nhiêu loài với nỗi khổ niềm đau, thì Ngài thị hiện với bấy nhiêu thân tướng tương ứng để cứu độ tất cả.

     Tôi mường tượng rằng, nơi nào cần cũng sẽ có anh thị hiện tại đó để làm lành vết thương thân thể và xoa dịu nỗi đau tinh thần của bà con.

     Qua cuộc đời hành thiện của anh, tôi càng thấm nhuần thêm sự nhiệm mầu thâm sâu trong lời Phật dạy về niềm an lạc cao cả nhất của con người là:

 

„Đêm ngày hành thiện thâm công

Phước lành quả báo tương đồng chẳng sai“.

 

Hamburg, 30.02.2015

Phương Quỳnh - Diệu Thiện

(Viết để tưởng nhớ đến một người bạn)

 

 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/03/2017(Xem: 8200)
Mỗi sáng Chủ Nhật , quý Sư ở tu viện Santi Forest Monastery thường chuẩn bị rời chùa, đi xuống phố hoặc vào làng khất thực. Gọi là “đi khất thực”, nhưng thực sự nên gọi là “đi gieo duyên” với quần chúng địa phương thì đúng hơn, cư dân nơi đây, họ là những người Úc thuần túy, Phật giáo đối với họ là một tôn giáo hoàn toàn xa lạ, có thể họ chỉ nghe qua cái tên “ Buddhism “ mà không hề biết đó là gì ?
21/03/2017(Xem: 5599)
Đây là một tập bút ký, ghi lại cảm nghĩ của tác giả từ các nơi chốn tùng lâm ở Nhật Bản, Trung Hoa, Việt Nam. Không hề có một so sánh hay đánh giá ở đây, tất cả đều trình hiện như nó chính là nó. Chúng ta cũng vui đọc theo chân người đi, đôi lúc mình cũng là người đang đi như thế. Chiều thu muộn hay sáng hồng rực rỡ, một viên sỏi trong vườn thiền cũng chiếu rọi ánh tuyết lấp lánh. Tách trà xưa và nay cùng nâng lên để kỷ niệm giây phút tao phùng.
20/03/2017(Xem: 5208)
Đặt chân xuống phi trường Bordeaux, tôi thấy một cảm giác nao nao vui mừng và hối hộp. Tôi sắp đựơc gặp các huynh đệ và Thầy, tôi sắp đựơc trở về Làng Mai, nơi Thầy và Tăng Thân đã sinh ra tôi, đã cho tôi một hình tứơng sư cô trong tinh thần giải thóat. Nhìn ra ngòai cửa, các Thầy các sư cô đang vẫy tay chào đón chúng tôi, rồi quí‎ vị vào trong khu vực chuyển hành lí tiếp chúng tôi vận chuyển lên xe, về Làng.
20/03/2017(Xem: 5385)
Cuộc sống của chúng ta có những lúc cần phải suy gẫm về ý nghĩa về đạo lý làm người. Ngày xưa có một người gánh nước, mang trên vai hai chiếc bình. Trong hai bình ấy có một bình bị vết nứt, còn bình kia thì nguyên vẹn. Suốt một chặng đường dài từ nơi mé sông về nhà, chiếc bình nứt chỉ còn một nửa. Thời gian đã tròn ba năm, ngày nào cũng vậy, người gánh nước chỉ mang về đến nhà chỉ có một bình rưỡi nước.
28/02/2017(Xem: 12700)
Đó là câu chuyện về Ngài Geshe Lama Konchog Rinpoche qua đời năm 2001. Có nhiều chuyện kỳ lạ trở thành mầu nhiệm sau khi Ngài ra đi.
24/02/2017(Xem: 4013)
Một buổi xế trưa nắng hơi nghiêng về chiều, cái sân nhỏ trước hiên, nhờ bóng nhà đầy râm mát. Đàn gà ri -một mẹ, một bố và tám con- đang líu ríu bươi đất cát nơi chân hàng rào. Công việc thật thừa thãi, nhàm chán, tôi chắc chắn chúng chả tìm thấy gì trong đám cát khô cằn không một ngọn cỏ một bóng cây. Thế mà đã nhiều ngày, cứ giờ này, chúng lại luẩn quẩn quanh đấy, bươi đất cát, nô giỡn ra điều thích thú lắm. Không ai đoán được chúng rất tinh khôn. Vì vào giờ này, sau khi đánh một giấc ngủ trưa, tôi vẫn có thói quen mở nắp lon guigoz vốc một nắm gạo nàng hương mà tôi đã xay nhỏ bằng cối xay tiêu, một ít thóc, rồi thong thả ra sân chưa kịp cất tiếng…cộc...cộc…cộc…để gọi đàn gà ri, chúng đã ùa chạy tới, như một thói quen, đợi tôi cho ăn. Tôi rải gạo, thóc trên khoảng sân nhỏ bằng xi măng bên hông cửa ra vào. Những con gà ri con chỉ mới nở hơn tuần nay, lông trắng ngần, lăng xăng chạy theo bố mẹ, như những trái ping pong. Chúng vươn cánh và dù cố gắng nhiều lần để nhảy lên thềm nhà như
23/02/2017(Xem: 4598)
Họ đã kết hôn được 78 năm, người chồng 103 tuổi, người vợ 100 tuổi, họ vẫn ở bên nhau suốt ngần ấy năm tháng, mạnh khỏe và hạnh phúc. Trong ngày Valentine năm nay, câu chuyện về họ được biết tới, chia sẻ và gây cảm động.
22/02/2017(Xem: 36844)
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA CON TRAI CỦA TÔI (DALAI LAMA, MY SON) Tự truyện của mẫu thân Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 Tác giả: Diki Tsering Biên tập & giới thiệu:Khedroob Thondup Việt dịch: Thích Nguyên Tạng Diễn đọc: Quảng Thiện Duyên
05/02/2017(Xem: 4113)
Khi tôi lên giường, kim đồng hồ chỉ 23 giờ 30. Thông thường vào giờ này, vốn dễ ngủ, không mộng mị, nếu có, chỉ toàn giấc mơ hoa, không bao giờ gặp ác mộng, tôi đã ngáy khò khò; thế mà hôm nay, tôi trằn trọc mãi không ngủ được. Nằm trăn trở trong đêm, tôi lắng nghe âm thanh của đêm. Sài Gòn giờ này đã trả lại sự yên vắng cho nó. Không còn tiếng rao hàng, không còn tiếng người qua lại, không còn tiếng xe cộ? Lâu lắm mới có chiếc Honda xẹt ngang của vị nào đi chơi khuya về.
03/02/2017(Xem: 3823)
Thời gian đã vẽ thêm một vòng hào quang cho quá khứ thêm lộng lẫy đẩy lùi tất cả vào dĩ vãng trong một ngăn nào đó của bộ nhớ, và tuổi già thường hay hoài niệm những ngày cũ mà ngậm ngùi nuối tiếc. Tuổi già đối với những người khác không biết thế nào nhưng riêng tôi lại thích tham dự những buổi họp mặt với bạn bè cũ, gặp lại nhau biết bao mừng vui tràn ngập cả tâm tư. Tôi lại định cư tại một nước xa xôi lạnh lẽo, bạn bè ngày xưa không có, thành ra tôi cứ ao ước được bay đến những vùng trời khác. Nơi đó có những người bạn thời trung học thật tuyệt vời, là niềm an ủi cho mái tóc đã điểm bạc trong cuộc sống cách biệt quê người vạn dặm này. Tôi nhớ lại lần tôi qua Cali dự lễ kỷ niệm 50 năm xa trường. Đêm Đại hội đã để lại trong tôi quá nhiều cảm xúc, suy nghĩ; sự suy nghĩ với nhiều thứ pha trộn nhau. Với tôi, đó cũng là một sự hạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]