Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chó Phương Tây, Chó Phương Đông

06/01/201111:17(Xem: 7284)
Chó Phương Tây, Chó Phương Đông

Dog

Chó Phương Tây, Chó Phương Đông

Trần Thị Nhật Hưng

Sau kỳ nghỉ hè, trở vào hãng làm việc, không thấy Goga mang theo chó, tôi hỏi :

- Ủa , chó của bạn đâu ?

Goga, con nhỏ bạn người Nam Tư trả lời :

- Chó của tôi còn bé quá, phải một tháng sau, tôi mới mang qua được.

- Bạn gởi nó bằng bưu điện ?

-Không, tôi sẽ trở về rước.

Đúng một tháng sau, nhằm ngày cuối tuần, từ Thụy Sĩ, Goga cùng chồng lái xe hơi về Nam tư, vừa đi vừa về mất 16 tiếng để chỉ đónChếch Tê, con chó con của họ.

Goga muốn nuôi chó kể từ khi nàng thấy Chi Cô, tên con chó của ông Hubmann làm việc phòng bên cạnh. Hằng ngày, mỗi khi đi làm, ông đều dắt Chi Cô theo. Con chó thường nằm ngay cửa ra vào phòng ông. Thỉnh thoảng nó đi rong qua phòng làm việc của chúng tôi.

Chi Cô không mấy đẹp mặc dù lông nó đen, rất mướt và cái đuôi dài pha màu nâu nhạt xuắn lại rồi xèo ra như cánh hoa. Ở khuôn mặt nó có những đường chỉ trắng chạy viền theo mép tai, mắt mũi. Tựu trung Chi cô không có nét đặc biệt, cái nhan sắc được xếp loại thường thường bậc trungkhông gì quyến rũ, không mấy ưa nhìn.Có lẽ một phần tại nó to xác.

Chi Cô cao lớn, đứng tới ngang đùi của tôi.Chó lớn thường chẳng mấy dễ thương, nhưng tôi xem ra người trong hãng ai cũng thích Chi Cô, một điều đơn giản, tôi nghĩ, vì nó là chó, thứ súc vật mà người phương Tây rất ưa chuộng.

Riêng tôi, đối với Chi Cô, ban đầu tôi thấy sợ, cái cảm giác tự nhiên thường có của Phụ nữ Việt Nam khi gặp một con chó lớn.Nhưng dần dà với thời gian, sự lui tới thường xuyên của Chi Cô, trông nó hiền lành, không sủa, không cắn, thích gần gũi với người khiến tôi cũng đâm ra mến nó.Hằng ngày mỗi khi đi làm mang bánh mì ăn sáng, tôi thường dành một phần nhỏ cho Chi Cô. Riết rồi thành thói quen ; hễ thấy tôi, Chi Cô đứng dậy reo mừng, nét mặt nó hân hoan, quơ đuôi ve vẫy. Mỗi lần như vậy, tôi lại mở xắc tay cho nó một mẩu bánh mì. Đôi khi nó còn dúi đầu vào người tôi, đợi tôi ve vuốt, hỏi han :“ Chào Chi Cô, Chi Cô có khỏe không ?“Nó không ...trả lời, chỉ đưa mắt nhìn lại tôi trìu mến - tôi cảm nhận như vậy -.

Tình cảm thân thương nhẹ nhàng giữa tôi với Chi Cô những tưởng sẽ bền lâu, ai ngờ sóng gióbỗng đâu lại ùn ùn đến. Thời gian chỉ mới có hai tháng, một hôm, Goga đến gần tôi nói nhỏ :

-Trang, bạn không nên cho Chi Cô ăn nữa !

Tôi giương mắt ngạc nhiên :

- Tại sao?

Thay vì trả lời câu hỏi của tôi, Goga nắm tay tôi dẫn đến cửa cầu thang :

- Xem nè !

Rồi nó chỉ lên một tấm giấy màu hồng, lớn bằng cỡ tập vở, vẽ sơ sài hình đầu chó với hàng chữ : “Vì sức khỏe của Chi Cô, vui lòng đừng cho nó ăn. Cám ơn !”. Bên dưới không ký tên nhưng tôi cũng đoán ra, tờ giấy của ông Hubmannn. Điều ông yêu cầu đối với tôi cũng dễ thôi, không phiền hà, không thắc mắc. Chỉ tội nghiệp cho Chi Cô. Những ngày sau đó, vẫn như thói quen, hễ thấy tôi, nó lại chạy đến quấn quít, chờ tôi cho ăn. Tôi xoa đầu nó vỗ về, xòe mười ngón tay xoay xoay ra dấu không có gì cho nó cả : “Chi Cô thân mến của tôi ơi, tôi thương Chi Cô lắm, nhưng tôi không được phép cho Chi Cô ăn nữa !”.Nhiều lần như vậy, Chi Cô hiểu ra, nên tình của nó đối với tôi theo thời gian cũng dần dần phai lạt.Thậm chí về sau thấy tôi, nó đang nằm ngay cửa, cũng không buồn đứng dậy ve vẫy đuôi chào như hồi xưa, ngay cả cái liếc mắt nhìn tôi nó cũng không buồn nhấp nháy, mặc dù đối với nó, tình cảm của tôi dành cho nó vẫn như thuở nào, không cho ăn, nhưng tôi vẫn vui vẻ chào nó, hỏi han sức khỏe nó.

Vào mùa Đông, Thụy Sĩ thường rất lạnh, bên ngoài như cái tủ đông đá.Trong nhà đều phải dùng lò sưởi. Phòng làm việc của tôi và của ông Hubmannn đóng kín cửa để ủ hơi ấm. Chi Cô không ra được bên ngoài, tôi ít thấy nó nữa. Và… xa mặt cách lòngChi Cô quên hẳn tôi là điều hiển nhiên, mà chính tôi cũng không còn nhớ nó, quan tâm đến nó. Sự liên hệ của chúng tôi kể như chấm dứt.Từ đó, chuyện chó mèo đã không là vấn đề để tôi quan tâm nữa. Bẵng một thời gian, cũng gần một năm sau, vào giờ giải lao, hay tin Goga sắp nuôi chó và đem chó hằng ngày đến chỗ làm việc, tôi hết sức ngạc nhiên, đề nghị nó nuôi chó phóc, loại chó nhỏ, thân thể gọn gàng nhanh nhẹn, lông vàng xậm, ngắn sát da trông như vải nỉ; hoặc chó Nhật

cũng chỉ nhỏ hơn một trái banh, lông lướt thướt óng ả sợi vắn sợi dài, thường màu trắng, hay xám mà có lần tôi vẫn gặp ở cầu thang của bà hàng xóm. Bà nuôi một lúc hai con. Mỗi lần ra ngoài, bà nâng niu bế chúng như bế con mọn. Hễ thấy tôi, chúng sủa om xòm, rồi nhảy ra khỏi lòng bà loăn xoăn đuổi theo tôi, vừa đuổi vừa sủa vừa ngoái cổ dòm chừng chủ chúng. Cái cảnh” chó cậy gần nhà, gà cậy gần chuồng”, nhát, mà lại sủa ẩu thị oai khiến tôi buồn cười, tôi thấy chúng thật dễ thương.

Goga nói với tôi :

-Tôi nuôi chó cho tôi chứ đâu phải nuôi cho bạn.

Tôi cười :

-Nhưng tôi thấy chó nhỏ dễ thương hơn.

Goga gật đầu :

-Tôi cũng nghĩ như vậy.

Ngày Goga đưa Chếch Tê vào hãng, phòng làm việc của tôi bỗng rộn ràng hân hoan như cặp vợ chồng mới cưới có đứa con đầu lòng. Ai nấy đều ngừng tay làm việc, tụ lại ngắm Chếch Tê. Nó đang ngồi trên tấm nệm nhỏ hình bầu dục, dày cả gang tay đặt gần cửa ra vào.Chếch Tê cũng thuộc giống chó nhỏ nhưng không phải hai loại nhỏ tôi đề nghị.Thoạt thấy nó, tôi rất ngạc nhiên. Chếch Tê có dạng của một con cọp con hơn là chó. Nếu để nó sống lẫn lộn với cọp thật, khó ai nhận ra được. Thân Chếch Tê mập, tròn, lùn. Lông vàng, và chính vì lớp da bọc người nó đùn lại ở lưng, cổ và giữa trán, nên trông xa như những vệt rằn. Khuôn mặt Chếch Tê lại vuông, mõm đen điểm loáng thoáng vệt chấm trắng nhỏ, vài cộng ria mép lĩa chĩa hai bên hệt là mặt của một con cọp. Tôi nhìn kỹ nó hồi lâu. Bảo Chếch Tê đẹp thì không đúng vì mũi nó tẹt lét, tẹt đến nỗi phẳng lì, nhìn vào chỉ thấy hai lỗ mũi nó như hai cái giếng sâu thăm thẳm. Nhưng Chếch Tê có nét oai nhờ cằm bạnh và khoảng mõm đen rộng gần mang tai trông xa như người có bộ râu xồm xoàm kiểu quai nón. Nói chung, Chếch Tê kháu khỉnh dễ thương, có lẽ nhờ nó thuộc giống chó nhỏ và lại còn bé by. Suốt ngày, nó đi loanh quanh trong phòng, luẩn quẩn dưới chân chúng tôi. Ai thấy nó đến, nếu không bế nó lên đặt trên vai thì cũng cúi xuống âu yếm vuốt ve trò chụyện nó vài câu. Chỉ riêng tôi thì không. Không phải tôi không mến thích Chếch Tê và tôi đâu có hà tiện vài cái ve vuốt xoa đầu nó như đã từng làm với Chi Cô.Cũng tại mùa Hè vừa qua, nhân có vợ chồng người bạn từ Úc sang chơi. Anh bạn là bác sĩ giải phẫu tại bệnh viện Úc. Tình cờ trong câu chuyện nói về chó, anh kể rằng, anh đã từng chứng kiến nhiều bệnh nhân chết vì sán chó.Sán chó có thể xâm nhập vào cơ thể chúng ta qua đường máu từ các vết sứt rồi tích tụ nơi gan làm gan sưng lớn lên, không có thuốc chữa chỉ còn cách cắt bỏ phần gan sưng đó đi.Nhưng chẳng may nếu sót lại một trứng sán, sán chó lại tiếp tục hoành hành, bệnh nhân chỉ còn nước chết. Sau khi nghe như vậy, nhìn con chó nào tôi cũng có ấn tượng đầy trứng và sán trên thân thể chúng. Tôi rờn rợn rùng mình. Một lần, Chếch Tê quấn quít nơi chân tôi, dúi đầu vào ống quần tôi như nhỏng nhẻo; thấy nó dễ thương , tôi cúi xuống lấy hết can đảm… rụt rè đưa bàn tay đã xem xét kỹ không có vết sướt xoa đầu vuốt lưng nó. Chỉ duy nhất một lần rồi tôi vội ra bồn rửa tay ngay. Có lẽ tôi hơi quá đáng. Nhưng câu chuyện của người bạn bên Úc luôn lờn vờn trong trí, khiến tôi không khỏi ái ngại phòng bệnh hơn chữa bệnh. Cổ nhân vẫn dạy như vậy.

Câu chuyện về sán chó, tôi không hề kể với Goga hay bất cứ người Âu Châu nào. Tôi nghĩ họ sẽ không tin, chỉ gây thêm đố kỵ. Phần khác, vì tôi biết Goga rất yêu quí Chếch Tê của cô. Goga mua Chếch Tê từ Nam Tư với giá một ngàn năm trăm quan Thụy Sĩ, tương đương trên một ngàn đô la Mỹ. Khoảng phí tổn này chưa đáng vào đâu so với món tiền hằng tháng hơn năm trăm đô cô phải trả vì Chếch Tê. Đó chưa kể đến khoản tiền thỉnh thoảng cô đưa Chếch Tê đi bác sĩ thú y để khám sức khoẻ dù Chếch Tê không bịnh !

Số là căn hộ trước của Goga có ba phòng, tọa lạc ngay trung tâm thành phố, lại gần hãng (chỉ mười phút đi bộ) rất thơ mộng và lý tưởng cho một cặp vợ chồng son như cô, nhưng lại không được phép nuôi chó. Goga đành phải tìm nhà khác ở ngọai ô với giá thuê gấp đôi chỉ vì sự hiện diện của Chếch Tê. Ngoài ra, hằng ngày trong hãng, cô cũng khá bận rộn để chăm sóc Chếch Tê. Từ miếng ăn thức uống, tuy không phải nấu nướng cầu kỳ nhưng cũng tốn bộn tiền, thời gian để mua loại thực phẩm đóng hộp dành cho chó phương Tây. Và mỗi khi nó ăn uống xong, cô còn phải dùng khăn ướt lau miệng cho nó. Vào giờ giải lao, sau khi dắt Chếch Tê ra khoảng sân cỏ giải quyết vấn đề vệ sinh - đôi khi nó đi bậy trong phòng, lẽ đương nhiên cô thu dọn lau chùi, bực mình không ít - cô lại bế nó vào nhà, đặt nó trên đùi, hai chân trước nó gác trên bàn đảo hai con mắt đỏ ngầu ngơ ngác hóng chuyện cùng chúng tôi. Đề tài về sinh hoạt của Chếch Tê vẫn là điều thích thú đối với Goga và các bạn đồng nghiệp.Thỉnh thoảng trong phòng bất chợt có tiếng động mạnh làm Chếch tê giật mình, Goga hốt hoảng ôm nó vào lòng, xiết chặt trấn an nó!

Nhìn cảnh cưng chìu chó thái quá của Goga, tôi chạnh lòng thương thân phận của những con chó ở một số nước Á Châu nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Cũng là chó, chỉ cách một khoảng không gian số phận lại khác hẳn.

Tôi còn nhớ năm nào khi tôi vừa chín tuổi, tôi đã thấy hai con chó Lu, Ky mà bố mẹ tôi đã nuôi, không rõ từ lúc nào, nhưng chúng đà lớn lắm. Con Ky đứng cao tới mông người. Con Lu thấp hơn con Ky một gang tay.

Lông con Ky màu đen , mượt mà. Chân vàng. Một vài chỗ ở bụng, ở ức và trên mặt cũng màu vàng. Tuy thân thể con Ky gồ ghề cao lớn nhưng nhờ eo thon, vai rộng nên trông nó khỏe mạnh, gọn gàng như một lực sĩ điền kinh. Đặc biệt con Ky có hai lỗ tai lớn, vểnh thẳng và cao. Khi ngủ cũng như thức hai lỗ tai luôn trong tình trạng nghe ngóng của một thám tử.

Con Lu dịu dàng mảnh mai hơn. Vì là con cái nên không có nét hùng dũng mạnh bạo như con Ky. Lông con Lu toàn vàng. Nhìn chung, nhan sắc nó bình thường, không có gì đáng nói.

Cũng như bao con chó khác, con Lu con Ky được gia đình tôi nuôi theo kiểu Việt Nam. Ngày hai bữa trong buổi ăn chính của gia đình, mỗi con được một dĩa cơm nhựa với ít thức ăn đặt dưới chân bàn hoặc vài mẩu xương đã vơi hết thịt, chúng vồ lấy gặm lấy gặm để. Những bữa ăn thêm là “sản phẩm” bài tiết của em bé, con của các anh chị tôi.

Không bao giờ tôi thấy bố mẹ tôi hay bất cứ người nào trong nhà hỏi han ve vuốt chúng. Sự hiện diện của chúng được xem bình thường như gà, vịt, heo, ngỗng, bồ câu… mà bố mẹ tôi nuôi ở nhà sau. Có khác chăng là không ai nghĩ giết thịt chúng, mặc dù bố tôi rất thích ăn thịt chó.Thỉnh thoảng đàm đạo với bạn bè, bố tôi thường nhắc lại các món nhựa mận nấu với riềng và mẻ, dồi chó với lá mơ, chả chìa , sáo chó..v.v..mà ông từng được ăn hồi còn ở miền Bắc.

Người Bắc hay ăn thịt chó.

Ăn phải chó dại bỏ bu Bắc Kỳ.

Đó là câu ca dao do người miền Nam gán cho dân miền Bắc. Trong khi người Bắc thì lại quan niệm:

Sống trên đời ăn miếng dồi chó.

Chết xuống âm phủ biết có hay không?

Và để diễn tả thịt chó rất hợp với củ riềng, ca dao còn nói :

Con chó khóc đứng khóc ngồi.

Bà ơi đi chợ mua tôi đồng riềng.

Riêng con Lu, con Ky nhà tôi, tuy không được ưu đãi, nuông chìu đi xe hơi, xe bus, ngồi ghế salon và đi dạo với chủ như chó phương Tây, nhưng kể ra đời sống chúng ổn định, không là cho ghẻ, chó hoang không nơi nương tựa và nhất là sinh mạng chúng được bảo đảm. Chỉ bấy nhiêu đó thôi cũng đủ để chúng trung thành với gia đình tôi rồi. Hằng ngày ngoài những bữa ăn, đêm cũng như ngày, mùa Hè cũng như mùa Đông (mùa Đông ở miền Trung lạnh cóng) chúng không có ổ, có nệm thế mà chúng vẫn luẩn quẩn nơi gầm bàn nào đó gần cửa để trông nhà.

Ngay những con chó được nuôi để giết thịt, như chó của cán bộ quản giáo đội nuôi heo ở trại tù số sáu Nghệ Tĩnh, ông ta nuôi chó để bán thịt cho các tù nhân sĩ quan miền Nam. Hôm cắt tiết, ông ta sơ ý để chó xổng tay bỏ chạy. Bốn ngày sau gặp lại ông ở bìa rừng, chó thấy chủ, vẫn vẫy đuôi quấn quít vui mừng. Tưởng ông ta cảm động trước lòng trung thành, quảng đại của nó ; nào ngờ một tuần sau, khi giết thịt, để cho chắc, ông nhẫn tâm lấy búa đập đầu nó không một chút xót thương.

Thân phận chó ở Việt Nam tội nghiệp như thế, không hiểu sao đã bị bạc đãi, chúng còn bị người đời đem thân phận của chúng để mắng nhiếc, rẻ khinh :” đồ chó”,”quân chó má”, ” quân chó đẻ”…những tiếng chửi dùng ám chỉ bọn lưu manh, đốn mạt trong xã hội, trong khi bản chất thực sự của chó có là thế đâu. Không chỉ câu chửi phát xuất từ miệng nhân gian, mà ngay trong văn chương Việt Nam hồi thế kỷ 18 còn ghi chép lại qua câu chuyện của Ông Ích Khiêm. Ông dòng dõi người cao nguyên, một võ tướng dũng cảm, tính khí can trường, không luồn lụy ai, chỉ một lòng thờ vua, lo việc nước. Sau khi vua Tự Đức băng hà, trước cảnh triều chính rối loạn, gian thần lộng hành, bên ngoài thực dân Pháp lăm le đô hộ nước ta; trong triều văn thần võ tướng, toàn là lũ cầu an, ăn không ngồi rồi, chả ai màng việc nước, ông bực mình đặt ra một tiệc rượu nấu toàn món thịt chó, mâm trên cổ dưới la liệt rồi mời các đại thần sang dự. Lúc vào tiệc, nhiều người ăn không được, tò mò thắc mắc hỏi :” Thịt gì thế?”, ông thản nhiên trả lời :

-Bẩm, trên dưới toàn chó cả !

Các quan hiểu ngay, ông chửi xéo họ.

Bữa tiệc chó nấu rất mặn.Cơm xong, ai nấy đều khát nước, tôi tớ trong nhà ông không ai mang nước lên vì ông đã dặn trước. Hồi lâu sau, có người lấp ló ngay cửa, ông quát tháo ầm ầm :

-Này, chúng bay toàn là lũ ăn hại. Chỉ mỗi việc nước mà chả đứa nào lo cả!

Dường như chó ở Việt Nam cảm nhận được sự đối xử tàn tệ của loài người nên thường hung dữ hơn chó ở phương Tây. Nói vậy, điều này cũng tương đối thôi, “hiền thường cộc”, nên gần đây, chó phương Tây vài con cũng “ dở chứng” hung hăng không kém ; như ở Đức, một con chó lớn ở đâu nhảy vào cắn cổ một học sinh chết tại chỗ trong sân trường và mới đây nhất tại Thụy Sĩ, ba con chó nhỏ từ trong nhà nhảy ra đường xúm nhau xé xác ăn thịt một em bé trai sáu tuổi một mình trên đường đến trường đã gây xôn xao dư luận. Do đó, thấy chó lạ, cẩn thận vẫn hơn. Phòng bệnh hơn chữa bệnh. Còn chó Việt Nam chưa nghe cắn chết ai bao giờ. Nhưng gặp người lạ, nhất là những người từng ăn thịt chó,chúng đánh được hơi, chúng thường sủa và chực nhảy xổ vào cắn. Bị chó cắn rất là phiền phức. Người bị cắn phải chích vào bụng nhiều mũi thuốc để ngừa chó dại.

Con Lu, con Ky của gia đình tôi không cắn ai bao giờ. Nhưng thấy người không quen, nếu có thêm bộ dạng khả nghi, kỳ quái, chúng chỉ sủa và gầm gừ vô cùng dữ tợn.

Sau năm 1975 đời sống kinh tế khó khăn, lại thêm người miền Bắc vốn ưa chuộng thịt chó vô Nam càng nhiều, đã là nguyên nhân nảy sinh ra tình trạng chó bị bắt cóc. Những vụ bắt cóc vô cùng tàn nhẫn. Người ta không chỉ đợi đêm khuya thanh vắng ném cho chó một miếng thịt tẩm thuốc mê mà người ta còn bắt chó công khai giữa ban ngày trên đường phố. Một sợi dây thòng lọng ném vào cổ chó giựt mạnh, con chó chỉ kịp kêu “ẳng” một tiếng đã bị người trên xe nhảy xuống trùm bao tải vứt lên xe.Dần dà chó trong xóm biến dần. Người nuôi chó chả biết phải đối phó làm sao.

Gần đây, bịnh cúm gia cầm đe dọa trầm trọng tại nước ta, đồng bào không dám sử dụng thịt gà, vịt… bình thường như trước đây, thiên hạ lại chiếu cố nhiều hơn vào thịt chó (lẫn cả mèo). Các tiệm, quán “Cờ Tây”(cầy tơ),”Mộc Tồn”(mộc là cây,tồn là còn.Cây còn là con cầy),”Nai Đồng Quê”, “Sống Trên Đời”, “Đây Rồi”, “Rựa Mận”, “Quán Lá Mơ”…v…v… vốn đã nhiều, giờ càng gia tăng để thay thế các quán phở gà, cháo gà, vịt…Do đó, thân phận chó càng thê thảm hơn. Người ta nuôi chó, không chỉ còn để giữ nhà, có người nuôi để bán thịt.Từ đó, lại sinh thêm nghề buôn bán chó.Những con chó bị đẩy ra khỏi nhà, theo người buôn chó, chúng còn quay đầu buồn bã nhìn lại chủ nó trước khi rời xa,vô cùng tội nghiệp!

Càng nghĩ, tôi càng thấy sự bất công của Thượng đế dành cho chó ở Việt Nam. Trong khi chó ở phương Tây, một cái chết oan uổng của con chó nào đó cũng đã là vấn đề để báo chí quan tâm, đăng tải rùm beng cảnh giác người bất cẩn. Như câu chuyện cặp vợ chồng người Anh dắt chó đi du lịch Hong Kong. Khi vào tiệm ăn, họ đưa chó xuống bếp xin thực phẩm cho chó ăn. Không biết họ diễn tả thế nào, và đầu bếp hiểu tiếng Anh ra sao mà hơn một tiếng sau đó, bồi bàn mang cho họ mấy món thịt chó nấu từ con chó của họ !

Một lần, cũng vào giờ giải lao, tôi kể cho Goga và các bạn làm việc cùng phòng về câu chuyện ba tù hình sự phụ trách nhà máy điện trại sáu Nghệ Tĩnh. Vì đói quá, họ lén cắp con chó con của một quản giáo rồi nhanh nhẹn lột da, vứt ruột, bỏ vào lon guigoz luộc ăn. Hôm sau quản giáo biết được, ông ta tức giận lôi ba người nằm ngửa giữa sân rồi đi giày nện trên bụng từng người một cho đến khi nào…lòi thịt chó ra, mới thôi. Nào ngờ ba ngày sau, có hai người vì dập gan mà chết. Câu chuyện thương tâm đau lòng như vậy, thử hỏi thế gian này mấy người biết đâu ? !

Qua những điều kể trên, tôi luôn nghĩ và hy vọng, ngày nào trên thế giới sự bất công không còn đối với muôn loài, ngày đó sẽ thanh bình thực sự vậy.

Trần Thị Nhật Hưng.

1-2006

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/06/2020(Xem: 10642)
Sau 26 năm lưu đày biệt xứ với 2 bản án Chung thân của người tù trải qua hơn một phần tư thế kỷ, tôi trở về từ cõi chết được bình an, trong sự chào đón hân hoan vui mừng của mọi người thân ruột thịt cốt nhục gia đình của quý chư Tôn Đức Pháp quyến. Đặc biệt các Tổ chức Nhân quyền LHQ, Hội Ân xá Quốc tế, Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam tại Hải ngoại, Phòng Thông tin Phật Giáo Quốc tế tại Paris, các Đài Truyền thông Quốc tế loan tải phổ biến tin vui. Nhiều đồng bào Phật Tử xa gần trong và ngoài nước, đã gửi điện thư, điện thoại, đến đất Bạc nơi mái tranh nghèo tôi đang tạm trú,
02/06/2020(Xem: 10621)
THƯ TÒA SOẠN, trang 2 ¨ TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 4 ¨ BIỆN TRUNG BIÊN LUẬN TỤNG THÍCH, t.t. (HT. Thích Thắng Hoan), trang 9 ¨ THÔNG ĐIỆP CỦA SỰ HẠNH PHÚC (ĐNT Tín Nghĩa), trang 12 ¨ TỬ SINH, TỰ TÌNH KHÚC (thơ Ns. Hạnh Đạt), trang 13 ¨ TÀI SẢN SẼ MẤT, TẠO PHƯỚC THÌ CÒN (Quảng Tánh), trang 14 ¨ TÂM THƯ CẦU NGUYỆN BỆNH DỊCH CORONA VŨ HÁN CHẤM DỨT (HT. Thích Tín Nghĩa), trang 15 ¨ CHÚC NGUYỆN THƯ PHẬT ĐẢN 2564 (TK. Thích Tuệ Sỹ), trang 16 ¨ THỌ GIỚI (HT. Thích Huệ Hưng), trang 18 ¨ SAU MÙA GIÓ LOẠN (thơ Mặc Phương Tử), trang 23 ¨ CHÙA CỔ THIÊN TỨ... (Tâm Không Vĩnh Hữu), trang 24
31/05/2020(Xem: 4653)
-Các con biết đây là gì không? Đây là chiếc Gối Gỗ của Sư Ông. Bốn huynh đệ chúng tôi trố mắt nhìn nhau, lần đầu tiên trong đời mới thấy chiếc gối gỗ. Thì ra, món đồ Sư Phụ để trên bàn thờ mấy năm qua được bọc vải vàng là cái Gối Gỗ của Sư Ông, chúng tôi nhiều lần thắc mắc nhưng không ai biết được đấy là gì, cũng không dám hỏi Sư Phụ. Tôi còn nhớ như in buổi chiều khi hay tin Sư Ông viên tịch, Thầy trò đang ngoài ruộng lúa chuẩn bị cho vụ mùa. Thầy vội vã về chùa để ra quê cho kịp chuyến xe tối. Hạnh Trí nhanh nhẹn chuẩn bị cho Thầy bộ Y, mấy bộ quần áo và vài gói mì lá Bồ Đề bỏ vào trong cái túi đãi đã bạc màu. Hạnh Tú thì tranh thủ dắt chiếc xe đạp ra ngoài trong tư thế đưa Thầy ra quốc lộ. Hạnh Lưu nhanh tay lo cho Thầy mấy trái bắp luộc để lót dạ trên đường. Thầy đi chỉ dặn dò mấy con ở chùa nhớ công phu bái sám đều đặn, công việc nặng thì nhờ quý bác Phật tử giúp giùm.
29/05/2020(Xem: 3803)
Hôm nay ngày Đại Tường Sư Ông, Sau thời công phu sáng, trước Giác Linh đài, chí thành đảnh lễ, không gian như lắng yên, tĩnh lặng…tất cả nhìn tôn ảnh của Sư Ông với tất cả niềm kính cẩn thiêng liêng, trên bàn thờ những đóa sen hồng đang nở, hòa với những ngọn nến thật huyền diệu lung linh… - Tâm hả con, vào nhanh đi. Tiểu Tâm bối rối cả người té ra là …, Chú sợ quá, quỳ xuống lạy Hòa thượng trong tiếng khóc nức nở trong nỗi niềm vừa lo âu và hối hận. Hòa Thượng lấy tay xoa lên đầu chú, vuốt cái chõm tóc dài đang ướt và nắm tay chú nhẹ nhàng từ tốn bảo: - Con thay quần áo nhanh đi, ước hết rồi, hơ ấm, lạy Phật, rồi ngủ đi con!
27/05/2020(Xem: 5583)
Hoa Lan vốn là loài hoa đẹp vừa kiêu sa thanh thoát, tuổi thọ cao (thường trụ trong chậu những sáu tháng), hương thơm nhẹ nhàng được bao người trân quí dùng làm quà tặng nhau hay chưng tại các đại sảnh, trang thờ, phòng khách... Nhưng Hoa Lan ở đây, tôi muốn viết về là bút hiệu của cô bạn văn tên thật là Lan Hương ( hương của hoa lan), cái tên đúng là có sự an bài của định mệnh.
10/05/2020(Xem: 4295)
Cả tuần lễ nay Chùa Linh Thứu như có sức sống của một cành cây đang đâm chồi nẩy lộc, khác hẳn với những tháng ngày cửa đóng then cài vì dịch Corona. Thí chủ nào muốn cúng dường gạo sữa, hoa quả chỉ dám nhấn chuông rồi lặng lẽ để phẩm vật trước cửa Chùa. Không thể nào thực hiện được hạnh nguyện cúng dường ba nghiệp thanh tịnh của Bồ Tát Phổ Hiền, nhưng tấm lòng nhớ đến Tam Bảo như thế cũng đáng được tán thán! Chùa trở nên sống động nhờ ý tưởng độc đáo của Sư Bà Linh Thứu, phải làm một cái gì hữu ích cho xứ sở mình đang sống để trả ơn cho họ trong cơn đại dịch. Sư Bà huy động tất cả các Phật tử có tay nghề may vá, kêu gọi họ may khẩu trang đem đến Chùa quyên tặng và các Sư Cô của Chùa cũng phải ngày đêm may cắt làm sao cho đủ số. Ít nhất phải đến con số 3000 chiếc khẩu trang ân tình Sư Bà mới dám triệu Ngoại Vụ của Chùa đi làm việc. Sư Bà muốn mời một vị khách quý của Chùa đến nhận món quà ấy, ông Thị Trưởng của quận Spandau nơi chùa Linh Thứu sinh hoạt.
01/05/2020(Xem: 12773)
Ngày 25 tháng 10 âm lịch năm 1967, Ngài ngồi thiền trong động Di Lặc, núi Củu Tiên, dãy Quế Lạc, Công xá Thượng Đông, Huyện Đức Hóa, Tỉnh Phước Kiến, đột nhiên được Bồ Tát QUÁN-THẾ-ÂM tiếp dẫn đi khiến mất cả tông tích. Lúc ấy, Pháp Sư được dẫn đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, tham quan các cảnh giới 9 phẩm hoa sen. Thời gian dường như chừng 1 ngày 1 đêm, nhưng khi về đến nhân gian đã là ngày mồng 8 tháng 4 âm lịch năm 1973 (đi từ 25/10 âm lịch 1967) chạy ra đã trên 6 năm 5 tháng trôi qua. Thoạt nghe thì như là vượt ra tri thức thường tình, khó mà lý giải được. Có câu nói "trên trời 1 ngày, dưới này vài năm" là vậy, cũng bởi không gian của vũ trụ không giống nhau, khái niệm thời gian cũng khác, người có chút ít hiểu biết về Phật học, tất lý nhận ra được.
30/04/2020(Xem: 5019)
Hãy mau mau buông bỏ mọi mê lầm ngay tại đây và ngay bây giờ. Xin giới thiệu với độc giả hoàn cảnh ra đời của bài này. Tác giả là nhân viên làm việc trong một nhà tù thuộc tiểu bang Victoria. Trong hoàn cảnh đại dịch Covid-19, mọi người dân đều phải chấp hành lệnh của chính phủ tiểu bang và liên bang để giữ gìn an toàn sức khỏe cho cộng đồng. Không được tụ tập trên mười người và phải giữ giản cách xã hội (cách nhau hơn một sải tay). Vì phải làm lễ cầu siêu cho một tù nhân vừa qua đời sau hơn hai năm mang nhiều thứ bệnh trong hoàn cảnh đặc biệt này cho nên chúng tôi chọn cái đề tựa như trên.
27/04/2020(Xem: 3439)
Ra khỏi bến xe Vinh, xe rẽ về ngả Thanh Chương. Hàng cây hai bên đường như lui dần, biến vào trong đám bụi đất đỏ phía sau xe. Sáng sớm trời còn mờ sương. Hơi lạnh từ các hốc núi tỏa ra lãng đãng tan vào không khí. Gió mát dịu, tôi khoan khoái ngả người vào thành ghế phía sau lơ đãng nhìn những đám mây xám lơ lửng trong bầu trời âm u. Dường như có một chút ánh sáng ửng hồng ở phương xa, bên kia ngọn đồi trước mặt. Xe tiến tới. Ánh sáng như thật gần rồi sáng bẵng. Mặt trời đã bắt đầu ló dạng. Người trong xe như trở mình sau một cơn ngáy ngủ. Họ lấm lét nhìn tôi soi mói như nhìn một quái vật từ cung trăng rớt xuống. Chắc là tôi lạ lắm. Tôi nghĩ vậy. Mái tóc ngắn, chiếc áo bà ba bó sát thân hình, chiếc quần đen hàng vải ú, nhưng dáng người ốm ốm, cao cao, tôi không giấu được tôi là người miền Nam vừa đến. - Chị ra Bắc thăm bà con đấy hẳn? Người đàn bà ngồi bên cạnh hỏi tôi. Tôi quay lại mỉm cười rồi gật đầu dạ nhỏ.
27/04/2020(Xem: 2973)
Năm tôi mười hai tuổi, tôi đã biết mộng mơ. Nhưng tôi không mơ công tử đẹp trai con nhà giàu học giỏi hay các chàng bạch diện thư sinh mặt hoa da phấn mà tôi mơ hình ảnh thiếu nữ áo dài xanh (màu xanh nước biển), có đôi găng tay trắng, ở cổ áo gắn hai đầu rồng nho nhỏ, xinh xinh, huy hiệu của tiếp viên phi hành hàng không Air Việt Nam.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]