Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chuyện Một Vị Sư Ở Chùa Hương

23/01/201122:12(Xem: 2036)
Chuyện Một Vị Sư Ở Chùa Hương
chuahuong_1

CHUYỆN MỘT VỊ SƯ Ở CHÙA HƯƠNG
(*)
Đào Văn Bình kể

Người ta truyền tụng rằng tại Nam Thiên Đệ Nhất Động có một vị sư tu hành đắc đạo. Có lúc sư ngồi thiền cả tháng, không ăn không uống, không lay động để thể hiện trí tuệ dũng mãnh của của Phật.

Có lúc ngài tụng Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Pháp Hoa, Kinh Viên Giác…tiếng như sư tử hống, vang vọng cả sơn lâm để thể thế gian có thể nghe rõ lời kinh, để thể hiện lòng từ bi của Phật.

Có lúc đi đứng, nằm ngồi giữ nghiêm giới luật, từng động tác, từng cử chỉ đều giữ gìn chính niệm để thể hiện tính trang nghiêm của chư Phật.

Có lúc ngài thị hiện thành người chèo đò đưa khách thập phương hành hương, thỉnh thoảng nói vui một vài câu Phật pháp làm tỉnh ngộ lòng người.

Có lúc ngài biến hóa thành một cậu bé luẩn quẩn ở bến đò, nhưng nói ra câu nào cũng khiến các cụ tấm tắc khen thầm tại sao có người uyên thâm Phật pháp đến như vậy. Phải chăng đây là Thiện Tài Đồng Tử tái sinh?

Có lúc ngài thị hiện thành một cô gái xinh đẹp bán đồ kỷ niệm ở Bến Đục. Người vừa đẹp vừa trang nghiêm, tính tình lại lễ độ, hòa nhã, vui vẻ. Khách hàng nào có trả giá cô cũng chẳng kèo nài. Thảng hoặc nếu có ai không đủ tiền cô cũng vui vẻ bán để “ tạo phúc duyên”.

Những ai không có tiền mà ham thích đồ kỷ niệm như tượng Phật, chuỗi Bồ Đề cô cũng biếu không và mỉm cười nói “Khi nào có tiền ông/bà trả tôi cũng được” khiến các cụ cứ tấm tắc khen thầm phải chăng đây là Tiểu Long Nữ hóa hiện?

Có lúc ngài thị hiện thành một gã chuyên giết thú rừng để làm đồ nhậu, món ăn chơi khóai khẩu, bày bán ngay trước bến đò để giáo hóa những kẻ đang hành nghề sát sinh, tàn phá núi rừng cây cỏ và làm ô uế cửa Thiền.

Một ngày kia khi sư đang tọa thiền thì một người nhảy vào, túm lấy vai sư nói:

-Thầy xem tôi có xấu không? Tôi rất khổ vì người đời nói tôi xấu!

Đây là một ông chân tay vặn vọ, khẳng khiu, da nhăn nheo, tóc thô, mắt to mắt nhỏ, tai nhọn như tai dơi, răng khấp khểnh chìa ra ngòai, môi thâm và trề ra như cái lưỡi thứ hai trông giống như Quỷ Dạ Xoa. Nghe hỏi vậy sư hiền từ đáp:

-Có những người xấu gấp ngàn vạn lần ông. Ông chẳng có chi gọi là xấu cả.

Nghe nói thế ông xấu kia vặn hỏi:

-Thầy thử nói xem những người kia xấu như thế nào?

Sư chậm rãi đáp:

-Những kẻ có tiền của nhưng không phụng dưỡng cha mẹ. Những kẻ tham tài phụ ngãi. Những kẻ giàu nứt đố đổ vách nhưng không hề bỏ một xu cứu giúp người nghèo khó. Những kẻ khích bác người đạo hạnh, khinh chê Tam Bảo, đố kỵ với người xả thân cứu đời, vô tài nhưng lại có máu ghen tị.

Những kẻ hay đâm thọc, ngồi lê đôi mách, thêu dệt, bịa đặt tin để gây chia rẽ. Những kẻ chuyên loan truyền tin xấu, chê bai dè bỉu thành qủa của người khác. Những kẻ ăn chơi đàng điếm, trụy lạc làm băng họai xã hội, buôn bán, chuyển vận xì ke ma túy làm tiêu ma thế hệ trẻ.

Những kẻ lười biếng ăn bám xã hội, sống trên mồ hôi nuớc mắt của kẻ khác…tất cả những người này mới xấu…chứ ông có gì gọi là xấu đâu?

Nghe nói vậy ông xấu đó lạy tạ sư rồi lui ra. Khi bóng ông vừa khuất thì một người khác hung hăng bước vào. Ông này ai nhìn thấy đều khiếp vía. Ông ta cao lớn dềnh dàng, mặt sơn trắng sơn đen vằn vện như những tay đấu vật ở Hoa Kỳ. Tóc ông ta dựng đứng và tua tủa như những chiếc đinh nhọn. Hai tai ông ta đeo lủng lẳng hai chiếc còng sắt số tám. Lỗ mũi ông ta móc một chiếc nanh heo rừng. Mắt ông ta đeo một miếng da màu đen giống như những tên cướp biển chột mắt. Cổ ông ta xâm trổ thành hình con cú. Hai vai ông ta quàng chéo hai vòng đạn đại liên như những tay cướp hung bạo ở vùng biên giới Hoa Kỳ- Mexico trong những phim Cao Bồi.

Ông ta cởi trần, ngực xâm trổ thành những con thủy quái gớm ghiếc. Hai cánh tay ông ta xâm hình hai con rắn hổ mang mà hai bàn tay là hai cái miệng của con rắn, cho nên khi ông ta đưa tay ra, giống như hai con rắn muốn mổ người ta. Ông ta không mặc quần mà quấn một chiếc khố bằng da beo. Hai bên đùi xâm hình hai cô gái lõa thể trông giống như yêu tinh, thần nữ. Tay trái ông ta cầm một chiếc móc sắt, tay phải cầm một quả lựu đạn đã mở chốt sẵn.

Ông ta đi giày bốt cao cổ của Mexico với hai mũi giày có gắn hai chiếc đinh ba, đá ai một cái là lòi ruột. Giọng ông ta khàn khàn giống như giọng của Ngưu Ma Vương khiến đàn bà có thai gặp ông sẩy thai, con nít gặp ông ngã ra bất tỉnh. Ông ta bước tới trước mặt sư, chìa cái móc sắt và quả lựu đạn ra, hỏi:

-Thầy có thấy tôi đáng sợ không?

Nghe ông hỏi vậy, sư điềm nhiên đáp:

-Ổng chẳng có chi đáng sợ cả. Có ngàn vạn người khác còn đáng sợ hơn ông.

Ông ta ngạc nhiên, vặn hỏi:

-Những người đó có gì mà đáng sợ hơn tôi? Thầy nói thử xem.

Sư đáp:

-Những kẻ mặt mũi đẹp đẽ, ăn mặc sang trọng, nói năng ngọt ngào nhưng trong lòng chứa đầy âm mưu thủ đọan luờng gạt hại người, kẻ đó mới đáng sợ.

Những kẻ hành tà đạo, tôn thờ thần linh, ma quỷ nhưng nói ra tòan chuyện đạo đức giả hình, biến người nghe thành những con cừu non khờ dại, những âm binh để sai khiến kẻ đó mới đáng sợ.

Những kẻ quản trị những công ty lớn, miệng nói trung thành, tín nhiệm nhưng gian tham, lường gạt khách hàng khiến cả trăm ngàn người tán gia bại sản, kẻ đó mới đáng sợ.

Những kẻ âm mưu thống trị nhân lọai nhưng nói ra tòan chuyện đạo đức, nhân nghĩa để lừa mị, kẻ đó mới đáng sợ.

Những kẻ đứng sau lưng những thế lực đen tối, buôn bán nô lệ, đàn bà, trẻ em, đứng đầu những tổ chức trùm ma túy, kết thành bè đảng Mafia, không chuyện hung ác nào mà không dám làm, những kẻ đó mới đáng sợ.

Những kẻ dùng ngòi bút, diễn đàn như gươm súng để đàn áp người cô thế, đầu độc dư luận, bóp méo sự thật, phỉ báng, vu oan giá họa người lương thiện như thế mới đáng sợ. Còn như ông thì chẳng có gì đáng sợ cả.

Nghe nói thế ông đáng sợ nọ chán nản lui ra. Khi ông vừa bước xuống thềm đá thì một cô gái bước vào, tới trước mặt sư, kiêu hãnh hỏi:

-Tôi là Hoa Hậu Hòan Vũ. Thầy có thấy tôi đẹp không?

Sư nhẹ nhàng đáp:

-Cô chẳng có chi đẹp cả. Có cả ngàn vạn người còn đẹp hơn cô rất nhiều.

Nghe nói thế cô gái mở tròn đôi mắt, bực bội nói:

-Hoa hậu hòan vũ là người đẹp nhất trong những người đẹp của thế giới. Thầy nói thử xem những người đẹp hơn tôi như thế nào?

Sư đáp:

-Giữ gìn trang nghiêm giới hạnh là thân đẹp. Ăn ở hiền hòa, thủy chung là nết đẹp. Thấy người ta ngã mà nâng lên, đó là cử chỉ đẹp. Thấy người ta đói cho ăn, rách cho mặc, nghèo túng mà giúp đỡ, đó là tấm lòng đẹp. Phụng dưỡng cha mẹ già, chu cấp người cô quả cô độc, tôn quý các bậc hiền thánh, cúng dường chư tăng ni đó là tâm hồn đẹp.

Thấy người ta lâm nguy, sợ hãi mà nói lời an ủi giúp đỡ, đó là ngôn ngữ đẹp. Không một tà niệm nảy sinh, đó là ý đẹp. Thấy người ta u tối, không hiểu biết mà khai mở trí tuệ, cho học hành chữ nghĩa, đó là trí tuệ đẹp.

Phá vỡ màn vô minh, hướng dẫn chúng sinh vào con đường an vui, giải thóat, đó là cái đẹp tối thắng mà Trời Đế Thích phải trải hoa tán thán.

Tất cả những cái đẹp này cần phải được phát bằng tuyên dương, ghi vào sử sách, lập bia ghi công, dựng tượng để chiêm ngưỡng. Còn cái đẹp của cô là cái đẹp của sự ham muốn, chiếm đọat, xoay vần trong vòng sinh tử luân hồi, ngầm chứa khổ đau, sớm nở tối tàn không có chi đáng tán dương cả.

Khi sư nói hết lời, cô Hoa Hậu Hòan Vũ rầu rĩ lui ra. Nghe nói sau cuộc gặp gỡ này, sư chống gậy trúc, cứ theo đường lên trời ở trong Động Hương Tích mà đi rồi biến mất, người đời mong muốn gặp lại sư cũng chẳng được.

Người kể lại: Đào Văn Bình

Năm 2554 (Phật Lịch) tức năm 2010 (Tây Lịch)

(*)Mô phỏng truyện Thần Bể Với Người Đi Buôntrong Kinh Hiền Ngu. Bộ kinh này do Sa Môn Tuệ Giác dịch ra tiếng Trung Hoa, Hòa Thượng Thích Trung Quán dịch ra Việt Ngữ tái bản ở Hoa Kỳ năm 2525 (Phật Lịch) tức năm 2001 (Tây Lịch)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/08/2010(Xem: 3501)
Tác-giả Thiện Xuân Malkhanova là một con người thật đặc-biệt. Còn nhớ năm 2000 khi chị Trương Anh Thụy và tôi đi sang họp Đại-hội Văn-bút Thế-giới ở Mạc-tư-khoa, chúng tôi đã để ý đến chuyện đi đường, gặp con sâu róm ở dưới đất, chị đã ân cần lấy một cái lá nâng nó lên rồi đặt nó lên một cành cây gần đó. Một con người từ-bi đến với cả cỏ cây, đất đá! Chị bảo đó là điều chị đã học được từ đạo Phật.
04/08/2010(Xem: 3134)
Không biết từ lúc nào, mà ngôi tịnh thất vô danh thấp thoáng dưới tàn cây huỳnh đàn rậm lá trên đỉnh núi Ông cheo leo mây mù đong đưa bao phủ quanh năm, đã được dân quê dưới chân núi ưu ái gọi là am Mây Ngàn thay thế cho cái tên “chòi đạo Ân” mà họ hùa nhau ám chỉ túp lều lá của sư Từ Ân ngày trước. Thuở mới đăng sơn cắm dùi khẩn đất làm chốn ẩn tu, sư lủi thủi một mình chẳng có móng đệ tử lăng xăng đón đưa phục dịch, sư tự vác cuốc, quẩy gánh... lặng lẽ lên tận đỉnh, khai phá được một khoảnh đất nhỏ làm rẫy. Sư bắt đầu trồng các loại rau đậu, khoai, bắp, cà dưa... để sớm gặt hái hoa lợi,
20/07/2010(Xem: 8764)
Đạo Phật là đạo của từ bi và trí tuệ, tất cả mọi hành động bằng thân, lời và ý đều xuất phát từ hai tiêu chuẩn đó nhằm đem lại lợi lạc cho mình và tha nhân. Đây là những đức tính rất cơ bản để phát triển về Giới-Định-Tuệ mà một người muốn thăng tiến về mặt tâm linh thì cần phải quan tâm và thực hiện một cách triệt để.
17/07/2010(Xem: 3894)
Đêm qua con nghe bài pháp “Vượt qua oan gia trái chủ”của thầy Thích Tâm Đại, cảm thấy bàng hoàng, sửng sốt, mồ hôi ướt lạnh. Hóa ra, trong quá khứ, con đã tạo vô lượng tội, gieo vô lượng oán thù, oan gia trái chủ.
25/06/2010(Xem: 4276)
Vì không biết sự vận hành nội tại nên hầu hết mọi người trên thế gian không ai nhận ra chính mình và cũng không đồng ý với chính mình. Có người nương vào thể chất như thân thể cao lớn, mạnh khỏe, sắc diện đẹp đẻ, sáng sủa thù thắng …và cho đó là ta. Có vị lấy tri thức như bằng cấp học vị là mình như tiến sĩ, bác sĩ hay kỹ sư v.v. Có vị lấy danh vọng chức tước như tổng thống, thủ tướng, bộ trưởng v.v.làm ta.
25/06/2010(Xem: 7419)
Cô Sue Dixon, một Phật tử người Úc, vướng phải căn bệnh hiểm nghèo, ung thư ngực, trong lúc dường như phải bó tay và hoàn toàn tuyệt vọng thì các Tăng sĩ Tây Tạng đã hướng dẫn phương pháp Thiền quán. Tuyệt vời thay, không lâu sau đó, cô bình phục và khỏe mạnh như xưa. Bài viết dưới đây, cô sẽ kể cho đọc giả biết quá trình loại bỏ bệnh ung thư như thế nào
02/06/2010(Xem: 2751)
Đó là ngày 26 Tháng 10 năm 1967. Tôi đang bay ngay trên bầu trời trung tâm Hà Nội đan chéo đầy hỏa tiễn trong phi vụ thứ 23 của mình, thì bị một hỏa tiễn Nga kích thước cỡ cột điện thoại bắn tung cánh phải chiếc Skyhawk ném bom tôi bay. Phi cơ bổ nhào từ cao độ khoảng 4,500 feet xuống đất, bị đảo ngược lại, gần như chúi thẳng đầu xuống đất. Tôi kéo cần bung dù thoát hiểm. Lực phóng làm tôi bị bất tỉnh vì tốc độ gió đâu khoảng 500 knot (chú thích người dịch: 926 km/giờ). Lúc đó tôi không nhận thức được, nhưng chân phải ngay quanh đầu gối và ba nơi trên cánh tay phải cùng cánh tay trái của tôi đã bị gãy. Tôi tỉnh lại ngay trước khi cánh dù của tôi rơi xuống một hồ nước ngay một góc của Hà Nội, một trong những hồ họ gọi là Hồ Tây. Mũ phi công và mặt nạ dưỡng khí của tôi đã bị thổi bay đâu mất. Tôi chạm mặt nước và bị chìm xuống đáy. Tôi nghĩ rằng hồ sâu khoảng 15 feet, cũng có thể 20. Tôi chòi chân phía dưới để nổi lên mặt nước. Lúc đó tôi không cảm thấy bất kỳ đau đớn nào. Tôi hít một
03/04/2010(Xem: 2964)
Đạo vốn vô ngôn; do ngôn mà hiển đạo, thế nên có mạn lục, có bảo huấn, có bút ngữ, có võ khố. Nay đây, có Hòa thượng Văn Thủ, tự Nhất Ty (1607 – 1648) người nước Nhật Bản, lúc đầu ở ẩn nơi Tây Cương thuộc đất Lạc Tây, về sau Ngài về núi Đan mai danh ẩn tích. Nhưng các hàng xuất gia khắp chốn hải hồ tìm đến bên Ngài kết am tranh tu học số đông không kể xiết. Rốt cuộc, danh Ngài thấu đến cửu trùng, vua thỉnh Ngài trụ trì hai chùa Pháp Thường và Linh Nguyên, ban hiệu là Định Huệ Minh Quang Phật ĐảnhQuốc Sư. Những khi nhàn rỗi, Ngài xem lại gương xưa góp nhặt những di ngôn, vãng hạnh của Phật Tổ và thêm vào đó lời phẩm bình biên tập lại thành bộ Truy Môn Bảo Tạng Tập (trong bản dịch nầy tạm lấy nhan đề là Kho Báu Nhà Thiền). Bộ sách nầy thật là cây đuốc huệ trong đường tăm tối, là thuốc hay cho người bệnh, chẳng những lợi cho người đương thời mà cũng là tiếp độ kẻ hậu côn, thật không có gì hơn vậy. Than ôi! Vào niên hiệu Bảo Vĩnh vì ảnh hưởng thời cuộc nên đâu có khắc bản và muốn lưu hàn
21/02/2010(Xem: 4440)
Tại biên giới của tỉnh Tây Khương sát với Tây Tạng có một bà lão sống cô độc, chồng và đứa con trai duy nhất của bà đã qua đời. Bà sống nhờ một thửa đất nhỏ trồng những hạt ngũ cốc. Vì cuộc đời đã trải qua nhiều gian truân từ nhỏ, bà lão cảm thấy nghiệp chướng trong người rất nặng nên đã cố công tìm hỏi những người chung quanh phương pháp chuộc tội để cầu xin cho tâm hồn được bình yên.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567