Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cạn tàu ráo máng

21/08/201506:24(Xem: 4152)
Cạn tàu ráo máng
Cạn tàu ráo máng
 
Trần Mộng Tú
21.08.2015



Tuy vườn sau nhà tôi ở hướng tây, mùa hè nóng thế mà góc vườn vẫn không đến nỗi nào, nhờ có vách tường đá dựng cao và cây mộc lan cổ thụ với những tán lá rộng che kín hai phần ba khu vườn. Chim, thỏ, sóc và nai vẫn tìm đến mỗi ngày. Nhất là nai, sáng sớm chim chưa kịp hót, người chưa ai dậy đã nghe tiếng chân nai bước lạo xạo trên đásỏi. Chúng vào tìm ăn những nụ hồng.

Hè năm nay tự nhiên xuất hiện một vị khách không mời, lạ hoắc.Vị khách này làm chim, sóc và thỏ phải chạy xa, trừ nai. Đó là một con chuột núi.

Gọi nó là chuột núi vì một buổi sáng từ trong bếp ngó ra vườn sau, giữa khe của những phiến đá tôi thấy nó chui ra. Nó không lớn lắm, chỉ bằng một quả dưa chuột, (hóa ra dưa chuột bằng nó chứ không phải nó bằng dưa.) Khi nó xuất hiện mấy con thỏ, con sóc tự nhiên không thấy nữa. Cái máng thức ăn treo trên cành mộc lan cho chim,đôi khi gió đung đưa hoặc chim ăn làm vung vãi xuống gốc, thỏ hay sóc thường tới ăn. Khi nó chạy ra chạy vào thì sóc và thỏ không còn dám bén mảng, cái màu lông đen nhánh của nó đã làm mấy chú này phát sợ. Nó đặc quyền ăn hết những hạt ngũ cốc rơi xuống.

chim-hot-hay-mua-xuan

Nó chạy rất nhanh, chỉ nghe tiếng tôi kéo cánh cửa ra vườn là nó phóng ngay vào một cái khe giữa hai vách đá gần nhất.

A, hôm nay thật lạ, ở trong phòng ăn nhìn qua khung cửa kính, tôi thấy nó đang chễm chệ ngồi trên cái máng ăn của chim, chúi cái mỏ vào, hì hục ăn, trông thật là xấu. Nó làm tôi liên tưởng ngay đến sự so sánh với cách ăn rất thong thả của chim, những con chim cúi xuống, mổ đôi ba hạt, lại ngửng lên, nghiêng nghiêng cái đầu chíp chíp gọi bạn tới chia xẻ. Mới nên thơ làm sao!

Con chuột hôm nay, không thèm đợi thức ăn rơi xuống gốc cây nữa. Thấy mà hoảng! Tôi gọi chồng ơi ới, ra mà xem con chuột tinh khôn này. Làm sao mà nó lên đâyđược. Nó làm tôi liên tưởng đến những ông Làng, ông Xã ở thôn quê ngày trước. Bắt đầu còn lấn loanh quanh vòng ngoài thửa ruộng, rìa đất của dân nghèo, dần dần chiếm luôn cánh đồng, chiếm luôn cả vườn đất hương hỏa mấy đời của cha ông người ta để lại. Cái cách nó hì hục ăn ngũ cốc của chim chẳng khác chi các ông to bàlớn ngày nay ở quê nhà, khi đã ăn được của dân, là ăn cho cạn tàu, ráo máng.

Chúng tôi đập tay vào khung kính cửa sổ gây tiếng động, nó chạy thoắt ngược lên sợi giây thép treo cái máng, chuyền sang cành, chạy ra thân cây, tuột xuống thật nhanh, phóng ngay vào một cái khe đá.

Tôi nói: Anh đặt cho em cái bẫy, em không muốn nó ăn thức ăn của chim và em muốn mấy con sóc, con thỏ hiền lành của em trở lại vườn.

Chồng tôi đi tìm cái bẫy, anh đặt một miếng pho-mai vào trong bẫy, đặt ngay dưới chân vách đá. Tôi hỏi thật kỹ liệu nhỡ thỏ và sóc chui vào có chết không? Anh nói chỉbắt thôi, nghĩa là chui vào không chui ra được. Như thế mình có thể thả ra hoặc mang đi nơi khác. Tôi yên tâm. Chờ mãi không thấy con chuột núi chui vào bẫy, thỏ sóc vẫn chưa dám tìm đường về. Điều giận là con chuột không coi tôi ra gì cả, vẫn thỉnh thoảng nó chễm chệ ngồi trên cái máng thức ăn của chim. Chim không dám về nữa. Bây giờ một mình nó làm chủ khu vườn.

Cả khu vườn vắng bặt tiếng chim ca.

chuot

Tôi bàn với chồng nên dùng mồi khác. Anh không những dùng mồi khác, anh còn dùng bẫy khác. Cái bẫy này nhỏ hơn, nhưng không phải cái lồng như bẫy cũ mà là cái bẫy mở, đặt miếng mồi có ngũ cốc trộn với bơ đậu phộng (peanut butter) vào giữa bẫy. Con vật nào mà bước vào, chạm tới miếng mồi, thì cái bẫy sẽ xập xuống, hai cái chân hoặc cái đầu sẽ bị giữ lại. Cái bẫy này bằng gỗ mỏng, cái lò so để xập xuống cũng rất đơn sơ. Nó sẽ không chết, nhưng không ra được nếu không có ai gỡ nó ra. Cái bẫy này cốt không tổn thương đến con vật.

Tôi hạ cái máng thức ăn của chim xuống, chỉ còn một chút hạt ngũ cốc vương lại. Tôi vứt cái máng vào thùng rác. Sẽ thay cái máng mới cho chim vì đoán là mùi chuột không thôi, cũng đủ làm chim sợ, không dám trở về vườn cũ.

Chúng tôi chờ hai,ba, ngày chưa thấy con chuột sập bẫy, cứ hồi hộp chỉ sợ sóc hay thỏ bị nạn.

Đến ngày thứ năm, cái bẫy mất tích. Chúng tôi đi tìm chung quanh vườn, không thấy đâu cả. Leo lên đồi, ra sau bức tường, nhìn vào những bụi lau, bụi hoa dại, bụi dâuđen (black berry), đi suốt dọc con đường mòn trên đỉnh đồi không hề tìm ra cái bẫy.

Cả tuần kế tiếp không thấy cái quả dưa chuột đen thui xuất hiện. Thỏ, sóc vẫn chưa thấy trở lại. Tôi với chồng tôi cứ đặt ra bao nhiêu giả thuyết: con nào sập bẫy rồi lôi cả cái bẫy đi? Tôi chắc chỉ là con chuột, vì chỉ có con chuột tinh quái mới biết lôi cái bẫy, sóc hay thỏ hiền lắm, chúng sẽ mắc kẹt luôn ở đó cho tới khi được giải cứu.Vậy con chuột lôi cái bẫy đi tới đâu, xa tới thế nào mà chúng tôi tìm không ra?

Sáng sáng, trưa trưa, lại chiều. Khi rảnh rỗi, tôi nhìn ra vách đá, nhìn suốt chiều dài bức tường, nhìn ở gốc cây mộc lan, nhìn dưới chân chậu cúc trắng. Mong như mong một người đi xa về.Tuyệt nhiên, không thấy cái màu lông đen bóng trên thân hình như quả dưa chuột xuất hiện nữa. Nó đi đâu?

Những con thỏ, con sóc đã mon men tìm về vườn, chim đã bắt đầu đập cánh, ríu rít gọi nhau trên cành. Đó là dấu hiệu con chuột đã bỏ đi thật xa. Nó đi xa với cái bẫy trên người?

Nó đi đâu? Chắc chắn nó phải mang theo cái bẫy. Hai chân trước hay cái đầu vướng trong bẫy mà nó vẫn lôi đi đến một nơi nào xa tới nỗi chúng tôi không tìm được thì nó giỏi lắm.

Tôi hình dung ra nó mang theo cái bẫy đi giật lùi, vì đầu và hai chân trước bị kẹt trong bẫy, đi tìm đồng loại ở một nơi nào đó. Chuột là loài gậm nhấm hay lắm, nếu chúng thông minh, xúm vào gậm rách miếng gỗ mỏng, có thể cái bẫy sẽ bung ra, bạn chuột sẽ cứu được nửa thân mình nó ra khỏi bẫy.

Hay nó là một con chuột ở trong một nhóm chuyên phản bội nhau, nên không cứu nó, nó phải đi tìm một cái hốc nào trong bụi rậm, chui vào đó, rồi chết mỏi mòn vì đói.

Tôi thật sự không muốn nó chết, chỉ không muốn nó xuất hiện ở nơi không thuộc về nó, làm những con thú hiền lành như chim, thỏ, sóc sợ hãi phải bỏ khu vườn mà đi.

Bây giờ tôi chỉ muốn nghĩ một đoạn kết tốt đẹp về con chuột núi này, như nó là một con chuột khôn ngoan, đã tìm được cách thoát khỏi cái bẫy, biết hối hận và bỏ đi thật xa.

Nó đủ thông minh để hiểu rằng khu vườn này là của muông chim, của thỏ hoang và sóc, nó không nên quay trở lại.

Đất đai này, cây cỏ này, thực phẩm này, chưa hề là của chuột bao giờ. Nó không nên bắt chước loài người, kẻo phải trả cái giá cho sự chiếm đoạt những cái gì không thuộc về mình.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/10/2010(Xem: 20316)
Mục đích của chúng tôi trong khi sưu tập những mẫu chuyện kể này là để mọi người thưởng thức những tinh hoa hay đẹp của giáo – lý qua những câu chuyện tươi sáng đẹp đẽ. Nếu công việc sưu tập ca – dao là một việc khó thì công việc sưu tập và trình bày những mẩu chuyện cổ của đạo Phật cũng là một việc khó khăn và đòi hỏi sự hợp lực của nhiều người. Hàng chục ngàn mẫu chuyện đạo, nào thuộc loại tiền thân, nào thuộc loại lịch sử, nào thuộc loại thí dụ, nào thuộc loại triết lý. . . những câu chuyện đó thật là phong phú và chứa đựng những tinh hoa của giáo - lý, từ - bi và trí tuệ. . . Ðọc những mẫu chuyện đạo ấy, không ai thấy chán nản cả. Các em thiếu nhi thích đã đành, người lớn chúng ta cũng vẫn thích và hơn thế nữa, lắm lúc cũng phải suy nghĩ nhiều để có thể hiểu được triết – lý của một câu chuyện. Chúng tôi sức lực không bao lăm thành thử trông mong rất nhiều ở các vị học giả thâm uyên và dày công nghiên cứu. Chúng tôi chỉ muốn làm công việc nói lên những nguyện vọng, và tr
22/10/2010(Xem: 3884)
Tại biên giới của tỉnh Tây Khương sát với Tây Tạng, có một bà lão sống cô độc, chồng và đứa con trai duy nhất của bà đã qua đời. Bà sống nhờ một thửa đất nhỏ trồng những hạt ngũ cốc. Vì cuộc đời đã trải qua nhiều gian truân từ nhỏ, bà lão cảm thấy nghiệp chướng trong người rất nặng nên đã cố công tìm hỏi những người chung quanh phương pháp chuộc tội để cầu xin cho tâm hồn được bình yên.
21/10/2010(Xem: 8410)
Bị xổng một lần trong khóa tu học kỳ 6 tại Bỉ, vì chọn ngày hè trật đường rầy (hãng tôi làm việc phải chọn hè từ đầu tháng 2); năm sau, tôi quyết tâm canh ngày giờ cho đúng để tham dự cho bằng được khóa tu học kỳ 7 tại Đan Mạch, do Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu tổ chức.
19/10/2010(Xem: 7984)
Khi xe chúng tôi đến nơi, đồng hồ chỉ đúng 12 giờ khuya. Phòng ốc dành cho 300 giường đã không còn chỗ trống. Ban Tổ Chức đành trưng dụng phòng họp, phòng học - một cho phái nữ, một cho phái nam - với các tấm nệm lót dưới đất cho chúng tôi ngủ tạm. Giải quyết một lúc cho phái đoàn Thụy Sĩ 30 người - chưa kể các nước khác - đâu phải dễ. Vả lại đi chùa thì phải chấp nhận "ăn chay nằm đất". Nằm "đất" còn phải chịu, lựa là nằm "nệm", nên chúng tôi vui vẻ nhận lời, không than van gì cả. Mà than van nỗi gì được khi đã hiểu giáo lý (dù chút chút) của đạo Phật. Mọi sự phải do "duyên" mà có. Và "duyên" này khởi từ "nhân" chiều nay.
17/10/2010(Xem: 9481)
Hơn 6 tiếng xe lửa từ Aschaffenburg, tôi trở về đến nhà gần 10 giới tối. Lục đục tắm rửa, ăn chén súp nóng (do chồng nấu cho) huyên thuyên kể chuyện, rồi đánh răng... mãi gần 12 giờ khuya tôi mới lên giường đi ngủ. Sáng sớm hôm sau 6 giờ thức dậy sửa soạn đi... cày. Công việc ứ đọng của 2 ngày thứ 5, thứ 6 (lấy hè, cộng với công việc của thứ 2 đầy ắp trên bàn. Tôi một mình chịu trách nhiệm một phòng không ai thay thế). Ông xếp trước khi về văn phòng còn đứng đó chờ đợi, vẻ lo âu. Tôi trấn an ông:
17/10/2010(Xem: 4740)
Tết Trung Thu ăn vào ngày rằm tháng 8. Nguyên cuối đời nhà Tây Hán (206 trước 23 sau D.L.), Vương Mãng nhân được cầm giữ chính quyền...
17/10/2010(Xem: 2921)
Một vị thương gia lập nghiệp từ tay trắng, sau kiếm được rất nhiều tiền nhưng vì buôn bán trong thời kinh tế không ổn định, khiến anh ta trở nên phá sản, nợ nần chồng chất. Nghĩ mãi không tìm ra cách giải quyết, anh ta bèn ra bờ sông tự tử. Vào lúc canh ba một đêm nọ, anh ta đến trước bờ sông, bỗng nhiên nhìn thấy một thiếu nữ đang ngồi khóc thảm thiết, anh bèn đến hỏi cô gái: - Có chuyện gì mà đêm hôm khuya khoắt cô ngồi khóc một mình ở đây?
16/10/2010(Xem: 4079)
Hàng ngàn năm trước tây lịch, khi thổ dân Dravidian còn ngự trị khắp lãnh thổ Ấn Độ cổ thời, vùng phía tây Hy Mã Lạp Sơn là lãnh địa của rắn. Vốn là vùng rừng núi bạc ngàn nằm trên nóc nhà thế giới, Hy Mã Lạp Sơn là nơi thâm u bí hiểm với sơn lam chướng khí trùng trùng và vô số loài thú dữ cư ngụ sẵn sàng lấy mạng người để làm thức ăn. Thời đó, thổ dân Dravidian không có đủ vũ khí hùng mạnh để chống cự với các loài mãnh thú và tự bảo vệ mình. Từng người vào rừng săn tìm thức ăn đã không thấy trở về. Độc địa nhất không phải chỉ là những hổ, cọp, gấu, beo nằm lồ lộ chờ mồi bên bờ suối, dưới gốc cây hay trong khe đá, mà ngay bên dưới lớp lá khô mục của đường rừng là những loài rắn nguy hiểm chực chờ bước chân người.
16/10/2010(Xem: 3740)
Trong thiền không có đầu đuôi, khúc chiết, lý luận. Nó đập vỡ lý luận. Đó là thế giới lý tưởng của câu thơ lớp ba mồ côi luận lý. Thế giới của những câu cuối lấc cấc, mẹ gà con vịt. Đừng bắt tôi giải thích; hãy lang thang với tôi trong câu cuối của dăm ba chuyện thiền nổi tiếng.
16/10/2010(Xem: 3785)
Trong đời, tôi đã thấy mặt trăng lần nào chưa? Nhìn trăng, tôi nhìn cả đời. Nhưng thấy trăng, tôi không dám nói chắc. Khi tôi nhìn trăng trước mắt, tôi nghĩ đến trăng nửa khuya loáng thoáng trên tàu lá chuối sau vườn cũ. Tôi nghĩ đến đèn trung thu lúc nhỏ. Tôi nghĩ đến cái chõng tre giữa sân trên đó, ngày xưa, tôi nằm nhìn mây bay. Nhìn trăng, tôi không thấy trăng. Chỉ thấy lá chuối, chõng tre. Thấy cả tôi với trẻ con hàng xóm nô đùa. Có lần tôi trốn tìm với chúng nó, bị lộ, tôi nhảy bừa vào bụi tre, bất ngờ có đứa con gái đã ngồi sẵn trong đó. Tôi sợ hoảng, toan vọt ra thì nó kéo tay tôi lại, ấn vai tôi xuống, cười đồng lõa. Trong loáng thoáng của cây lá, tôi thấy hai cái răng cửa của nó sáng ngời ánh trăng. Bây giờ, nhìn trăng non, tôi thấy cái miệng và hai cái răng. Tựa như hai cái răng của nó phát ánh sáng và in hình miệng nó lên bầu trời.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]