Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chiếc khăn bàn

31/12/201321:33(Xem: 2346)
Chiếc khăn bàn

red_rose_59

 

      Đời người được bao nhiêu mà chiếc khăn bàn ấy đã ở với tôi gần nửa thế kỷ! Cho đến nay vẫn đang còn và có lẽ sẽ còn mãi với tôi cho đến cuối cuộc đời!

      Hằng năm, vào dịp Tết, thành phố Huế thường tổ chức Hội chợ rất lớn, và trường Đồng Khánh cũng có một gian hàng ở trong đó. Vì vậy trường thường có những nỗ lực về văn nghệ và triển lãm để trình diễn trước công chúng. Văn nghệ bán vé gây quỷ thường là những màn chọn lọc từ những cuộc thi đua giữa các đơn vị lớp. Triển lãm thì cũng là những công trình nghệ thuật do học sinh sáng tác dưới sự chỉ dạy của các vị giáo sư Hội họa và Nữ công.

      Năm ấy, tự nhiên tôi được xếp làm giáo sư hướng dẫn một cái lớp quá sức đặc biệt; một cái lớp đã qui tụ rất đông nhân tài về nhiều mặt và đã đạt nhiều thành tích. Về triển lãm Nữ công thì lớp đã đoạt một giải về công trình thêu tay bộ khăn bàn ăn, chưa kể về Văn nghệ, về Báo chí cũng đoạt giải, không thua kém các lớp khác.

      Được chủ nhiệm một cái lớp đa tài như vậy, cô giáo hướng dẫn thật quá may mắn! Tuy nhiên, nói hên cũng đúng mà nói xui cũng phải. Vì với ngần ấy hoạt động, ngần ấy thành tích, thầy trò chúng tôi năm đó thật là thở không ra hơi, và ngược lại, mệt cũng lắm mà vui cũng nhiều! Thầy, bạn do những sinh hoạt ngoài việc học hành đã trở nên khắn khít thân nhau hơn, gần gũi hơn. Bạn cùng lớp càng thương mến nhau hơn, giúp đỡ dìu dắt nhau để có thể vượt qua bài vở hầu dành thì giờ cho những sinh hoạt Hiệu đoàn. Giữa thầy trò thì khoảng cách rõ ràng được thu ngắn vô hạn. Thầy cũng hết nghiêm mà trò cũng bớt sợ. Trong những giờ phút sinh hoạt ấy, không còn nỗi ám ảnh của cái bục giảng, cuốn sổ điểm hay con Zéro mà thật sự đồng lao cộng tác, chỉ có bình đẳng, chỉ có tiếng cười. Sự gần gũi trong sinh hoạt là mối dây thắt chặt tình bạn, tình thầy trò cho đến mãi về sau.

      Nhân dịp về thăm lại trường xưa, tìm gặp lại học trò cũ, thầy trò vẫn khắn khít. Các em đều đã nghỉ hưu, đã là những bà nội, bà ngoại, đối với nhau vẫn còn giữ liên lạc chặt chẽ biểu hiện rất rõ nét về tình đoàn kết thương mến nhau. Đối với tôi, các em vẫn còn quá đậm đà tình cảm, hết sức trìu mến, pha thêm chút nhỏng nhẻo còn rơi rớt lại của tuổi thơ dưới mái trường hồng mà từ lâu đã thiếu dịp bộc lộ, bị quên lãng bởi áo cơm.

      Những kỷ niệm hồi ức trong cuộc họp mặt với lớp tôi hướng dẫn năm xưa, đề tài " Chiếc khăn bàn" là niềm cảm xúc sâu đậm nhất. Đó là bộ khăn ăn được trưng bày trong cuộc triển lãm Nữ công của trường Đồng Khánh trong hội chợ Tết năm nào! Một cái khăn bàn khổ vừa với 6 khăn ăn, mẫu vẽ do họa sĩ Lê Yên - giáo sư Hội họa của trường và đã được bà Bữu Tiếp - giáo sư Nữ công hướng dẫn cho một số em thêu tay tập thể. Hình tượng của mẫu vẽ là một đôi rồng vàng uốn khúc được đơn giản hóa chung quanh trang trí bằng cành lá trúc màu xanh lá cây, tất cả trong một khuôn viên hình chữ nhật thuần màu xanh dương ở chính giữa. Phần khăn chung quanh được trang trí bằng những hoa lá rời nhiều màu, khuôn viên ngoài cũng là 4 cạnh của khăn bàn được viền bằng hàng rào màu xanh đậm. Tôi không có khiếu thẩm mỹ, cũng không có đủ khả năng thẩm giá hội họa cho nên tôi không thấy được là nó có đẹp hay không? Nếu đem so với những bộ khăn bàn thêu tay sản xuất bởi các Dòng Nữ tu thì có lẽ còn nhiều non nớt, vụng dại trong đường kim mũi chỉ, và cũng có hơi loạn xà ngầu về màu sắc. Tuy nhiên, đối với tôi nó vẫn đẹp chi lạ!

             Tôi đã chứng kiến sự hình thành của nó từ lúc bắt đầu còn là một tấm vải. Thật ra là một tấm drap trắng, các học sinh của tôi tình nguyện xông vào, tíu ta tíu tít chen nhau đồ bản vẽ mẫu lên vải. Rồi phân công nhau lên từng phần, họ ngồi bệt giữa nền xi-măng để có đủ chỗ cho mỗi người thêu mỗi góc. Các em đã cặm cụi thêu vào những buổi trưa ở lại trường sau khi những nắm cơm đem theo được ăn vội vã; họ thêu vào những buổi chiều ở nán lại sau khi tan học, ngồi ngoài hành lang làm gắng cho đến tia nắng cuối cùng, cho đến những chuyến đò Thừa Phủ chót. Như thế mà cũng phải hằng vài tháng cho đến khi hoàn thành cái khăn, chỉ vừa ủi kịp ngay trước ngày khai mạc cuộc triển lãm.

      Bao nhiêu công sức đã đành mà còn chỉ thêu và vải thì sao? Ngày nay, ở trên xứ Đức này mà nói chuyện bên mình thời đó, có thể không ai nghĩ ra tầm quan trọng vật chất đến như thế nào? Nhưng đối với những học sinh lớp mười thuở ấy, để chung tiền nhau mua cho được bấy nhiêu chỉ, vải cũng phải bao nhiêu bữa trưa nhịn ăn, bao nhiêu lần cuốc bộ nhịn tiền qua đò, tiền xe buýt. Nếu bán được bộ khăn thì còn khá, mà chắc là bán được vì rất nhiều gia đình khá giả có con học trường Đồng Khánh rất muốn có tác phẩm kỷ niệm của cái trường danh tiếng mà con em họ là một thành phần. Thế nhưng, trong gian hàng triển lãm, cái khăn lại được mang một tấm bìa ghi hai chữ "Không bán!".

      Thì ra các tác giả tí hon của lớp đã đồng ý với nhau, triển lãm xong thì để tặng cho cô giáo sư hướng dẫn của mình.

      Mỗi lần sực nhớ đến điều này, tôi cảm thấy hơi chột dạ! Tôi không nhớ nổi là hồi đó tôi có nương tay với các em này khi vì bận thêu, bận tập kịch, tập múa mà không làm tròn bài vở, nhất là môn toán hệ số 3 hay không? Cũng không nhớ nổi là tôi có trả lại phí tổn cho các em không, mà có trả thì chắc là các em cũng không nhận. Những lúc nhớ lại như vậy, tôi bỗng ước chi có thể chạy bay về Huế mà đền bồi bằng cách kéo cả bọn cùng đạp xe đi chơi biển Thuận An; đãi các em một chầu bánh canh Nam Phổ và chè đậu ván; một món hàng bình dân từ các O gồng gánh, ngoắc vô bên lề đường và có thể, đứa trên yên xe đạp, đứa ngồi bệt trên nón, bên lề đường!

              Các em ơi! Nhớ quá đi thôi!

              Đường xưa, mỏi gối cũng về bên nhau!

      Tại nhà một em học trò, rồi tại một quán nhỏ bên cung An-Định, chúng tôi cũng làm được những cuộc họp mặt bỏ túi với một nhóm không nhiều của lớp hướng dẫn năm xưa. Dĩ vãng và hiện tại lẫn lộn, thực và mộng đan nhau, nhưng nhất định lần này các em không cho tôi đãi họ. Các em cứ nói "Lúc ni tụi em đỡ lắm". Làm chi mà đỡ, người thì nhờ con, người thì đã về hưu.

      Và chuyện "Chiếc khăn bàn" vẫn là một đề tài được nhắc nhở nhiều nhất. Các em đâu có ngờ qua bao thăng trầm của cuộc sống, chiến tranh, lụt lội, qua bao nhiêu lần di chuyển chỗ ở, bao nhiêu đổi thay của hoàn cảnh sống; chiếc khăn bàn vẫn theo tôi từ ấy cho đến nay tại xứ Đức này và vẫn còn mãi mãi. Nó đã tồn tại qua Tết Mậu Thân, khi gia đình tôi bỏ chạy, nhà cửa bỏ trống bị người ta vào lục lọi, tất cả đồ đạc tan hoang, nhưng tôi không nhớ nổi là bằng cách nào mà cái khăn bàn lại được tồn tại theo tôi cho đến bây giờ?

      Trong hoàn cảnh chạy giặc, chỉ quơ vội một ít áo quần cần thiết, chỉ mong sao phải thoát cho khỏi xứ Huế khi Cộng quân tràn về, chạy vào Đà Nẵng. Thế rồi từ Đà Nẵng, tôi không trở về Huế nữa. Phút chốc vĩnh biệt Đồng Khánh, vĩnh biệt Huế và tất cả. Tôi không thể nhớ nổi và không thể hiểu nổi vì sao, trong hoàn cảnh nào mà trong cái mớ gia tài nhỏ bé của một người chạy giặc, chạy đôn đáo vào tận Sài Gòn định cư, cái khăn bàn kia lại cũng còn có mặt?

      Rồi đến chuyến di cư lớn nhất trong đời đi định cư ở Đức. Hành lý hạn chế cho cả gia đình 4 người, trong khi còn bao nhiêu sách vỡ muốn mang theo mà không được. Cả một cuộc đời chắt chiu kỷ niệm, đến giờ phút bứng gốc nhổ rễ, thật mất ăn mất ngủ vì bao nhiêu thứ "bỏ thì thương mà sương thì nặng".

      Vậy mà không hiểu lý do nào, tôi hoàn toàn không nhớ nổi vì sao khi qua đến Đức, tôi bỗng thấy lại cái khăn bàn thêu cũ kỹ, ố vàng và có lủng một lỗ, giữa những đồ thêu mới đẹp hơn! Yếu tố tâm lý nào, yếu tố tình cảm nào đã vô hình điều khiển đôi tay tôi khi sắp vali ?

      Giữa bao nhiêu vật chất sang trọng xa hoa của cái xứ này, không biết sao lúc nào trải khăn bàn cúng giỗ, tôi thường hay dùng cái khăn ấy, không chọn lựa, không nghĩ suy. Tự nhiên như hơi thở! Cái khăn bàn cứ hiện diện trong những dịp họp mặt ăn uống của gia đình, thậm chí cả ngày Tết cũng trải khăn đó, và tấm hình này đã đến tay một em học trò cũ ở Việt Nam. Các em đã truyền tay nhau xem, lòng rưng rưng cảm động!

     

      Không biết các em nghĩ gì khi thấy sau mấy chục năm trời, sau bao nhiêu cuộc đổi đời, tôi vẫn chưa thay cái khăn bàn cũ kỹ ấy! Phải chăng vì thế mà lần này, khi đưa tôi lên tàu trở về Đức, các em đã nhét vội vào vali làm quà cho tôi một bộ khăn thêu mới. Các em đã chung tiền nhau đi mua và đẹp hơn nhiều.

      Nhưng các em ơi! Các em có biết rằng đối với cô không có cái khăn nào đẹp hơn cái khăn cũ ngày xưa! Và nếu các em ngây thơ nghĩ rằng tặng cô một bộ khăn mới để cho cô bỏ cái khăn cũ kia đi thì còn gì đặc biệt để nói giữa chúng mình nữa đây?

      Hôm chia tay, vừa lụp chụp vừa cảm động tôi chưa có một lời. Giờ đây nhắc lại lịch sử chiếc khăn bàn qua những dòng chữ này gởi về Việt Nam, là lời giải đáp đối với những người học trò cũ ngây thơ của tôi; các em của lớp hướng dẫn ngày xưa mà nay xấp xỉ 60 tuổi rồi, tôi vẫn còn thấy ngây thơ vô cùng!

      Mặc dù vậy, tôi vẫn mang bộ khăn mới qua đây, vẫn sung sướng mang qua để còn khoe với các con, cho các con tôi thêm một lần nữa nhận biết là; mẹ của chúng đã chọn đúng ngành nghề, một cái nghề mà cho không bao nhiêu, nhưng đã nhận lại biết bao ân tình!

 

      Các con ạ! Đó chính là con đường mẹ đã đi, con đường mẹ đã chọn. Là tất cả hành trang của mẹ. Bây giờ và mai sau!!!

 

                                                                                                   Cuối tháng 10/ 2013

                                                                                                 Nguyên Hạnh HTD

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/10/2010(Xem: 2076)
Một vị thương gia lập nghiệp từ tay trắng, sau kiếm được rất nhiều tiền nhưng vì buôn bán trong thời kinh tế không ổn định, khiến anh ta trở nên phá sản, nợ nần chồng chất. Nghĩ mãi không tìm ra cách giải quyết, anh ta bèn ra bờ sông tự tử. Vào lúc canh ba một đêm nọ, anh ta đến trước bờ sông, bỗng nhiên nhìn thấy một thiếu nữ đang ngồi khóc thảm thiết, anh bèn đến hỏi cô gái: - Có chuyện gì mà đêm hôm khuya khoắt cô ngồi khóc một mình ở đây?
16/10/2010(Xem: 3307)
Hàng ngàn năm trước tây lịch, khi thổ dân Dravidian còn ngự trị khắp lãnh thổ Ấn Độ cổ thời, vùng phía tây Hy Mã Lạp Sơn là lãnh địa của rắn. Vốn là vùng rừng núi bạc ngàn nằm trên nóc nhà thế giới, Hy Mã Lạp Sơn là nơi thâm u bí hiểm với sơn lam chướng khí trùng trùng và vô số loài thú dữ cư ngụ sẵn sàng lấy mạng người để làm thức ăn. Thời đó, thổ dân Dravidian không có đủ vũ khí hùng mạnh để chống cự với các loài mãnh thú và tự bảo vệ mình. Từng người vào rừng săn tìm thức ăn đã không thấy trở về. Độc địa nhất không phải chỉ là những hổ, cọp, gấu, beo nằm lồ lộ chờ mồi bên bờ suối, dưới gốc cây hay trong khe đá, mà ngay bên dưới lớp lá khô mục của đường rừng là những loài rắn nguy hiểm chực chờ bước chân người.
16/10/2010(Xem: 2656)
Trong thiền không có đầu đuôi, khúc chiết, lý luận. Nó đập vỡ lý luận. Đó là thế giới lý tưởng của câu thơ lớp ba mồ côi luận lý. Thế giới của những câu cuối lấc cấc, mẹ gà con vịt. Đừng bắt tôi giải thích; hãy lang thang với tôi trong câu cuối của dăm ba chuyện thiền nổi tiếng.
16/10/2010(Xem: 2814)
Trong đời, tôi đã thấy mặt trăng lần nào chưa? Nhìn trăng, tôi nhìn cả đời. Nhưng thấy trăng, tôi không dám nói chắc. Khi tôi nhìn trăng trước mắt, tôi nghĩ đến trăng nửa khuya loáng thoáng trên tàu lá chuối sau vườn cũ. Tôi nghĩ đến đèn trung thu lúc nhỏ. Tôi nghĩ đến cái chõng tre giữa sân trên đó, ngày xưa, tôi nằm nhìn mây bay. Nhìn trăng, tôi không thấy trăng. Chỉ thấy lá chuối, chõng tre. Thấy cả tôi với trẻ con hàng xóm nô đùa. Có lần tôi trốn tìm với chúng nó, bị lộ, tôi nhảy bừa vào bụi tre, bất ngờ có đứa con gái đã ngồi sẵn trong đó. Tôi sợ hoảng, toan vọt ra thì nó kéo tay tôi lại, ấn vai tôi xuống, cười đồng lõa. Trong loáng thoáng của cây lá, tôi thấy hai cái răng cửa của nó sáng ngời ánh trăng. Bây giờ, nhìn trăng non, tôi thấy cái miệng và hai cái răng. Tựa như hai cái răng của nó phát ánh sáng và in hình miệng nó lên bầu trời.
16/10/2010(Xem: 2172)
Ngày xưa, một nhà quan lang họ Cao có hai người con trai hơn nhau một tuổi và giống nhau như in, đến nỗi người ngoài không phân biệt được ai là anh, ai là em
16/10/2010(Xem: 2032)
Ngày xưa, vào hồi Tây Sơn khởi nghĩa, có một chàng trai người vùng Đồng Nai, có tài cả văn lẫn võ, đã vung gươm hưởng ứng sự bất bình của thiên hạ.
16/10/2010(Xem: 1857)
Ngày xửa... Ngày xưa... Có một cô bé rất giàu lòng yêu thương. Cô yêu bố mẹ mình, chị mình đã đành, cô còn yêu cả bà con quanh xóm...
15/10/2010(Xem: 2249)
Một danh tướng về già muốn tặng thanh kiếm báu của mình cho một tướng quân ở xa. Ông giao trọng trách đó cho một gia nhân, cũng là một tay kiếm xuất chúng. Cẩn thận như vậy, ông vẫn không yên lòng, nghĩ rằng kiếm sĩ này chưa chắc đã đủ chín chắn để giữ kiếm không bị cướp dọc đường. Thanh kiếm không những quý về chất thép mà còn quý vì chuôi kiếm có nạm vàng và ngọc vua ban.
13/10/2010(Xem: 1702)
Có hai vợ chồng một ông già tên là Dã Tràng. Trong vườn họ có một hang rắn. Thường ngày làm cỏ gần đấy, ông già vẫn thấy có một cặp vợ chồng rắn...
13/10/2010(Xem: 3286)
Vào Thứ Sáu, ngày 8 tháng 10 năm 2010, Ủy Ban Giải Nobel Hòa Bình Na Uy đã công bố giải Nobel Hòa Bình năm 2010 được trao cho Lưu Hiểu Ba. Lưu Hiểu Ba, sinh năm 1955 tại thủ phủ Trường Xuân của tỉnh Cát Lâm ở đông bắc Trung Quốc, là nhà tranh đấu bất bạo động cho tự do, dân chủ và nhân quyền tại Trung Quốc. Ông đã từng tham gia phong trào sinh viên đấu tranh trong biến cố Thiên An Môn năm 1989 và sau đó liên tục bị sách nhiễu, quản chế tại gia và tù tội. Ngày 8 tháng 12 năm 2008, ông đã bị bắt vì cùng một số nhà tranh đấu dân chủ và nhân quyền Trung Quốc công bố Hiến Chương 2008 đòi xóa bỏ chế độ cai trị độc đảng để tiến tới một xã hội dân chủ cho Trung Quốc. Hiến Chương 2008 cho đến nay đã có hơn 8,500 người tham gia ký tên. Vì Hiến Chương 2008, Lưu Hiểu Ba đã bị chính quyền cộng sản Trung Quốc kết án 11 năm tù. Hiện ông vẫn còn ngồi tù ở Liễu Ninh, Trung Quốc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567