Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Có một người

25/06/201007:55(Xem: 5246)
Có một người
 ngamison_1

Vì không biết sự vận hành nội tại nên hầu hết mọi người trên thế gian không ai nhận ra chính mình và cũng không đồng ý với chính mình. Có người nương vào thể chất như thân thể cao lớn, mạnh khỏe, sắc diện đẹp đẻ, sáng sủa thù thắng …và cho đó là ta. Có vị lấy tri thức như bằng cấp học vị là mình như tiến sĩ, bác sĩ hay kỹ sư v.v. Có vị lấy danh vọng chức tước như tổng thống, thủ tướng, bộ trưởng v.v.làm ta.

Mọi người chúng ta ai ai củng có hai con người, một con người ở bên trong và một con người bên ngoài. Con người bên trong thì lặng lẽ còn con người bên ngoài thì năng động. Con người bên trong không làm nên được, còn con người bên ngoài do thu thập mà có. Tại sao chúng ta đau khổ? 
 
Chúng ta đau khổ vì chúng ta chỉ biết thu thập mà không biết tiêu hóa, giống như chúng ta ăn nhiều thức ăn mà bộ máy tiêu hóa của chúng ta hoạt động không hữu hiệu. Đời sống hằng ngày của chúng ta vì quá phụ thuộc vào con người bên ngoài nên dường như chúng ta quên mất con người thật thụ của chúng ta, dù rằng nó lặng lẻ nhưng luôn luôn hiện hửu. Cũng vậy cùng hiện hữu trên một cái thân nhưng chúng ta chỉ biết chăm chú và săn sóc phía trước chẳng mấy khi ta nghỉ đến phía sau lưng, ngoại trừ khi ta bị mệt mỏi hay đau nhức.

Vì không tiêu hóa những gì chúng ta thu thập được cho nên nó biến thành bệnh thói quen, theo thời gian lâu dần những thói quen mà ta huân tập nó biến thành sự vận hành nội tại, và chính chúng ta phải chịu sự điều khiển và làm nô lệ cho những gì mà cũng chính từ ta tạo nên nó. Con người bên ngoài thì nương vào sự luân chuyển của thời gian mà có, nó không bền chắc, vì nó không căn bổn, không gốc gác, nhờ dòng đời mà có nên nó phải luân chuyển theo dòng đời khi lên khi xuống, khi có khi không.

Thân thể của chúng ta là một bộ máy vô cùng hoàn hảo, được tạo nên bằng sự chọn lựa vô cùng tinh vi từ vật chất nên rất quí giá và vô cùng nhạy bén, nó giống như một tấm gương sáng có thể phản ảnh tất cả những hình ảnh nào xuất hiện trước nó. Chẳng những hình ảnh mà ngay cả tinh thần và tư tưởng cũng không qua khỏi nó. Nói về độ quí giá thì trên thế gian này thì không có vật gì quí giá hơn. Về trí thức của con người thì chỉ nhận biết sự quí giá bậc hạ và bậc trung, còn bậc thượng, bật siêu đẳng thì tri thức không làm sao nhận ra được, giống như người Phi châu khi xưa lấy đá kim cương chọi bò vậy.

Thân thể này ta tập luyện như thế nào thì nó uyển chuyển theo ta thế ấy, vì vậy nó không có thực tánh, nó thanh thoát nhẹ nhàng, khi tâm tư ta hướng thượng như trải lòng thương đến mọi người, đến vạn vật, nó u ám nặng nề khi ta sân si với mọi người, với vạn vật. Khi cảm thấy bị đau nhức thì đó là lúc thân thể báo động cho chúng ta biết đời sống của ta mất quân bình vì nhờ vậy bằng cách này hay cách khác ta nghĩ cách điều chỉnh lại cuộc sống hằng ngày. Vì không nhận ra sự quan trọng tính chất quân bình trong đời sống nên mọi bệnh tật từ đó phát sinh, nhất là vào thời thanh thiếu niên vì thân thể cường tráng và sự hiểu biết còn nông cạn nên hành động hằng ngày dễ đi vào sự quá độ và từ đó nó tập thành thói quen cho quảng đời sau này.

Thân thể này biến diệt từng phút, từng giây, từng sát na tế, nhận được hay không là do chúng ta. Nó đến rồi đi theo chu kỳ nhất định. Thành trụ hoại diệt không có người nào ngăn chận được nó, nó có hình dáng như thế này hay như thế kia là do phước đức tích tụ nhiều hay ít, hay vừa tàn tật, xấu xa, bần cùng vì không tạo phước đức.

Một tinh thần sáng suốt ở trong thân thể khỏe mạnh đó là nói theo thế gian, còn có những vị muốn chứng biết những sự việc cao siêu huyền diệu hơn thì thân thể khỏe mạnh không thôi thì chưa đủ mà phải cần nhẹ nhàng thanh thoát nữa mới được. Những điều cao siêu huyền diệu nó không bao giờ xuất hiện trong một cơ thể nặng nề ô trược, giống như những đồ vật quí giá không ai bỏ vào những đồ đựng xấu dơ.

Có nhiều cách tu hành để làm cho thân này chuyển hóa từ ô trược nặng nề thành nhẹ nhàng thanh thoát, nhưng điều quan trọng là những trạng thái xuất hiện trong giai đoạn chuyển hóa chúng ta có chấp nhận được hay không. Tùy theo căn cơ của mỗi cá nhân mà sự chuyển hóa có vô vàn sự khác biệt không có người nào giống người nào hết. Muốn có sự thấy biết chân thật thì thân tâm phải có sự quân bình với nhau. Khi thân tâm còn nghiêng lệch thì cho dù có nói những điều cao siêu đến đâu mà cái thân vẫn còn ô trược thì đó chỉ là cuồng ngôn loạn ngữ mà thôi.

Thân tâm không thể tách rời vì tâm nhờ cảnh mà biết, cảnh nhờ tâm mà hiện, tương tợ như âm với dương trong đạo dịch hay khí huyết trong thân thể chúng ta không thể tách rời ra được nhưng điều quan trọng là cái nào dẫn đạo mà thôi. Vì không có âm thì không có dương cũng như không có huyết thì không làm sao có khí được. Mọi sự việc xảy ra hằng ngày xung quanh nhờ năm giác quan mà ta nhận biết hầu hết là không trung thực đúng theo sự thật của sự việc đó, mà ta chỉ biết theo sự điều khiển bên trong và phán đoán theo thói quen. 
 
Thói quen nội tại nó giống như ông chủ khó tính, nó chỉ thích ra lệnh và nếu có nhận vào thì nó chỉ thích nhận những gì giống nó hay ít ra cũng tương tợ như nó, còn nếu vì hoàn cảnh bắt buộc mà ta phải nhận những gì mà khác với nó thì nó sẽ gây đau khổ cho ta giống như hình phạt vậy, cũng tùy theo cường độ mà hình phạt củng không tương đồng có thể là khóc liệt hay chỉ tượng trưng thôi.

Tư tưởng bị nô lệ, khống chế áp đặt từ đời này sang đời khác, vì vậy nó làm cho chúng ta cảm thấy mình nhỏ bé, yếu hèn và chỉ còn biết một điều là vâng lời và chấp nhận. Cũng có nhiều vị lờ mờ cảm thấy mình đang bị trói buộc vào một sự vô hình nào đó vô cùng chắc chắn, muốn vùng vẫy thoát ra, nhưng hầu như những vị đó không tìm được con đường khả dĩ để bước ra.

Sự vận hành nội tại hay tư tưởng của chúng ta nó giống như một mê cung hay bát trận đồ trong truyền thuyết của người Trung hoa, đôi khi ta thấy nó mở ra thênh thang nhưng khi ta bước đến thi không còn thấy đường ra nữa. 
 
Ngược lại đôi khi ta thấy nó đóng nhưng khi đi đến thì nó mở ra, nó đóng mở không báo hiệu, không giờ không phút, không trước không sau, không đầu không cuối, không phương không xứ. Vì nó như vậy cho nên nhiều vị muốn tìm hiểu nó đành bỏ cuộc, có những vị vô vọng uất ức nên tư tưởng nổi loạn đâm ra nghi ngờ chống đối tất cả, nhưng làm như vậy cũng không thể giải quyết được gì hết mà vô vọng cũng hoàn vô vọng

Trong Kinh Đại bát niết bàn, Thế tôn ngài có nói một thí dụ về tư tưởng của chúng ta bị trói buộc như thế này: Có một thợ săn dùng keo để bắt khỉ vượn, vì không biết khỉ vượn dùng tay sờ vào liền bị dính, không rút ra được khỉ vượn dùng tay còn lại để gở thì củng bị dính luôn, hai tay bị dính khỉ vượn dùng hai chân thì củng bị dính chặt, cuối cùng dùng miệng để gở thì củng bị keo dính chặt và chỉ chờ vậy thợ săn xuất hiện trói lại quảy đi. Chúng ta củng vậy, được sở hữu một vật vô cùng quí giá mà hầu hết vì không biết sử dụng nên bị nó trói buộc làm khổ. Thay vì ta làm chủ nó, ngược lại để nó làm chủ ta, mặc tình cho nó hành hạ sai kiến đủ điều mà ta chỉ biết cuối đầu vâng dạ phục tùng mà thôi.

Tự tánh của sáu giác quan là thu nhận mà không phân biệt, còn chúng ta nhận bằng cảm tính Nhị nguyên. Đã sống trong thế giới Nhị nguyên thì cho dù anh có thông minh tuyệt đỉnh hay cho dù anh phân tích sự việc tinh tế đến mức nào đi nửa để loại trừ một nửa kia thì củng không làm sao loại trừ nó ra được mà ngược lại nó còn bị dính chặt hơn nữa, vì vậy dân gian có câu ghét của nào trời trao của ấy cũng không sai là mấy.

Về Nhị nguyên tính thì những người bình thường trôi lăn trong đó đã đành mà cho đến những vị tu hành có định lực siêu việt hay những vị giác ngộ cũng không thể nào loại trừ ra được mà chỉ là “ Bất muội nhân quả” còn nếu loại trừ thì mất lòng Từ Bi với chúng sanh và đạo quả cũng không viên thành được.    

Để không bị trôi lăn trong thế giới nhị nguyên, để không còn đau khổ do sự vô thường biến hoại, để không bị sai khiến làm nô lệ cho những gì mình không thích mà vẫn phải làm, để không bị những tâm tư nặng nề ô trược ta không muốn mà nó vẫn đến không làm sao ngăn chận được, để không bị trói buộc bởi những sợ dây vô hình mà ta không biết đầu mối ở đâu và ta bị trói buộc tự bao giờ. Nói chung là sự đau khổ phiền muộn cả thân và tâm trong đời sống thế gian này.

Vậy muốn giải trừ mọi sự khổ đau, muốn thấy thế giới này một cách chân thật thì phải tìm thấy một con người. Con người đó tuy không cùng sanh nhưng chưa bao giờ rời xa chúng ta nữa bước. Khi chúng ta tìm thấy được con người đó thì mọi thắc mắc, mọi nghi ngờ, mọi khổ đau sẽ được giải đáp, tự tiêu tan và sự đó không còn là sự đó nữa.

Mãn Tự
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/04/2016(Xem: 3795)
Một đại văn hào người Pháp đã viết câu “Con người không bao giờ tắm hai lần trên một dòng sông“, nhưng Dòng sông Tịnh Độ của tôi không phải là “Dòng sông định mệnh“ của Quỳnh Dao, nên đã chan hòa đến lần thứ 11 tại chùa Linh Thứu rồi mà vị giải thoát vẫn ngời ngợi tỏa sáng. Vâng, khóa Huân Tu Tịnh Độ kỳ 11 từ ngày 14 đến 20 tháng 3 năm 2016 đã có khoảng 180 Phật Tử đa số từ phương xa và 20 Chư Tăng Ni đến tham dự. Đặc biệt vẫn là HT Phương Trượng chùa Viên Giác Thích Như Điển đến khai mạc và giảng Pháp, để phần hướng dẫn khóa tu cho Thầy Hạnh Giới một chuyên gia hay nói đúng hơn là một Hành Giả chỉ dẫn chúng ta con đường ngắn nhất và nhanh nhất đến gặp Đức Phật A Di Đà.
10/03/2016(Xem: 10432)
“This is SBS Radio The many voices of one Australia Broadcasting in Vietnamese Đây là SBS Radio Và sau đây là chương trình phát thanh Việt Ngữ”... Đó là nhạc hiệu mở đầu của Ban Việt Ngữ SBS Radio vào thập niên 1990 - mười lăm năm sau ngày đàn chim Việt tan tác lìa bỏ bầu trời quê hương. Mới đó mà đoàn lưu dân lê bước chân mục tử đã 40 năm rồi! Với hành trang tị nạn trên vai khi đến với SBS Radio, trong tôi vẫn còn đọng lại những thanh âm thảng thốt, kinh hoàng, van xin cầu khẩn của các thuyền nhân đồng hành khi gặp hải tặc Thái Lan, chuyến vượt biên bất thành đưa những con người sắp đến bờ tự do quay trở về quê cũ để rồi tất cả đều bị bắt vào tù, dù là trẻ con còn bồng ẳm trên tay. Đất nước tôi như thế đó, những con người còn lại trên quê hương sống vất vưởng đọa đày, những con người bỏ nước ra đi không nhìn được trời cao mà lại chìm mình dưới lòng biển lạnh
10/03/2016(Xem: 10425)
Năm 1979 thường được coi là điểm khởi đầu của nền báo chí Việt ngữ tại Úc khi số đầu tiên của tờ Chuông Sài Gòn được phát hành tại Sydney. Tờ báo này xuất bản 2 tuần một lần và sau đó đã trở thành một tuần báo. Trong vòng bốn thập niên qua, truyền thông tiếng Việt đã trải qua thời kỳ phát triển không khác chi truyền thông của các cộng đồng văn hóa đa nguyên khác, theo nghĩa là ngành này đã phát triển về số lượng cũng như sức mạnh theo đà phát triển của cộng đồng nói tiếng Việt.
01/02/2016(Xem: 15840)
“Đế Minh” là cháu ba đời Vua“Thần Nông”tuần thú, chuyển dời phương nam Đến núi Ngũ Lĩnh, (Hồ Nam) (1) Gặp nàng “Tiêngiới” lấy làm hân hoan Kết duyên chồng vợ vẹn toàn Sinh con: “Lộc Tục” hiền ngoan nhất đời “Đế Minh” quyết định truyền ngôi
31/01/2016(Xem: 3621)
Dì Trang là em của má tôi. Nếu không kể bên phía má, tôi có thể gọi dì bằng vai thấp hơn. Đơn giản, ba tôi là chú của chồng dì Trang. Khi ba tôi rời Hà Tĩnh để vào Nam, vào một thời xưa lắm, nghĩa là nói kiểu dân gian là năm một ngàn chín trăm gì đó, có dẫn theo một người cháu.
31/01/2016(Xem: 2980)
Tôi trở về Huế với một tâm trạng nôn nao bồi hồi! Hơn 30 năm sau mới nhìn lại Huế thân yêu, nơi đã cho tôi mật ngọt của thời mới lớn! Phi trường Phú Bài vẫn vậy, vẫn u buồn ảm đạm vào mùa mưa lụt, dù đã mấy mươi năm qua cũng chẳng rộng lớn, sửa sang gì hơn. Đã thế, tôi đặt chân xuống phi trường khi trời đã về chiều nên càng hiu hắt buồn. Niềm vui rộn ràng chỉ bừng lên khi thấy một số bạn cũ đã đứng chờ sẵn bên ngoài. Chúng tôi chỉ biết ôm nhau trong tay với bao niềm cảm xúc, nhìn nhau miệng cười mà nước mắt rưng rưng!
30/01/2016(Xem: 6213)
Có một y viện huyện thuộc vùng cao nguyên Thái Lan, do giao thông bất tiện nên bệnh nhân phải đi từ sáng sớm đến bệnh viện để khám và kịp quay về nhà trước khi trời tối.
20/01/2016(Xem: 4671)
Xin có vài dòng tâm tư nơi đây. Truyện này có một tựa đề rát là phim bộ Hàn Quốc. Tác giả đã nghĩ tới các tựa đề khác cho nhẹ nghiệp tình -- thí dụ như “Tay Ai Chưa Nắm Một Lần” hay “Dây Chuông Ai Níu Bên Trời” – thì lại rất là cải lương, và chẳng hấp dẫn tí nào. Truyện này có thể có vài dị bản khác nhau. Nguyên khởi là viết cho Báo Xuân Việt Báo theo nhu cầu phải có chất lãng mạn thế gian. Cùng lúc, gửi cho nhà thơ Kinh Bắc để đăng trên ấn bản xuân tạp chí Suối Nguồn (của Trung Tâm Dịch Thuật Hán Nôm Huệ Quang), với lời dặn dò rằng xin nhà chùa tùy nghi sửa đổi, cắt bớt, hay thêm vào sao cho phù hợp với chánh pháp.
15/01/2016(Xem: 12714)
Ngày xưa ở tại ven sông Có chàng khỉ sống ung dung một mình Mạnh sức lực, lớn thân hình Thêm tài nhảy nhót tài tình kể chi. Giữa sông có đảo đẹp kia Bao nhiêu cây cối rậm rì xanh tươi Trái cây ngon ngọt khắp nơi Nào hồng, nào chuối chào mời khỉ ta. Từ bờ tới đảo khá xa May thay có đá nhô ra giữa dòng
13/01/2016(Xem: 14168)
Việt nam nước tôi có chiều dài lịch sử thăng trầm trãi qua nhiều thời kỳ chống giặc ngoại xâm để giữ vững và mở rộng biên cương tổ quốc. Rồi qua hơn ba thập niên kể từ năm 1945 đến năm 1975 của thời hiện đại lại thêm một lần nữa Tổ quốc ngập chìm trong khói lửa chiến tranh tương tàn mà cho đến tận ngày nay vết thương vẫn chưa chữa lành bởi vì người ta nhân danh chủ nghĩa này lý thuyết nọ là những ý thức hệ ngoại lai.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]