Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 2: Học đạo cần phải tin được sanh tử là việc lớn

24/06/201317:07(Xem: 9241)
Chương 2: Học đạo cần phải tin được sanh tử là việc lớn

Kho báu nhà Thiền

Chương 2: Học đạo cần phải tin được sanh tử là việc lớn

Ðịnh Huệ

Nguồn: Thiền sư Văn Thủ, Dịch giả: Ðịnh Huệ

Quốc sư Vô Nghiệp nói:
Chỉ vì cơm ăn áo mặc mà dối Hiền lừa Thánh, cầu được thí chủ mang cơm áo đến; bậc có con mắt trí hụê biết được tâm người, coi đó như ăn máu mủ, rồi phải đền trả lại cho người.
Lại nói: Lúc lâm chung còn một mảy lông tình phàm lượng thánh chẳng hết, một mảy trần chưa quên thì theo niệm thọ sanh năm ấm nặng nhẹ như vào thai lừa bụng ngựa, cho đến chốn địa ngục một phen vào lò lửa vạc sôi thì những điều ghi nhớ, ức tưởng, kiến giải, trí hụê từ trước nhất thời đều mất hết, y như trước trở lại làm thân con muỗi con kiến.
(1) Người học Phật ngày nay lấy sự tích tập học hỏi nhiều ngày làm công phu, chẳng ra ngoài tám chữ: “ghi nhớ, ức tưởng, kiến giải, trí hụê.” Những thứ này nếu như nhất thời mất đi thì lấy cái gì đối địch với sanh tử? Người học Phật chân chánh đâu chẳng lo lắng ư!
Thiền sư Ðại Hụê nói:
Như tôi lúc chưa ngủ, điều Phật ngợi khen thì y theo đó mà làm, điều Phật quở trách tôi chẳng dám phạm. Trước kia y chỉ nơi thầy, tự thực hiện công phu được chút sở đắc thì lúc tỉnh thức đều được thọ dụng. Song đến lúc lên giường mơ màng nửa thức nửa ngủ thì làm chủ tể không được, mộng thấy được vàng bạc thì trong mộng mừng rỡ vô hạn, mộng thấy người dùng dao gậy bức hiếp và các cảnh giới dữ dằn thì trong mộng sợ hãi kinh hoàng. Tôi tự nghĩ: Thân nầy hãy còn, chỉ có ngủ mà làm chủ không được, huống là khi đất, nước, lửa, gió phân tán, các thứ khổ bừng dậy làm sao chẳng bị lôi kéo, nghĩ đến đây mới bắt đầu lo lắng.
Ngài Diệu Hỷ (2) từ năm hai mươi đến năm ba mươi sáu tuổi trong lòng ôm một mối nghi lớn. Một hôm, bỗng nhờ một lời nói của Thiền sư Viên Ngộ, ngài mới được an ổn, bởi vì ngài có lòng sợ sanh tử rất thiết tha, lúc chẳng rõ pháp đối địch với sanh tử, ngài không chịu thôi nghỉ. Người học đạo ngày nay ban đầu không có chánh niệm sợ sanh tử, chỉ đem tâm chí thô thiển tham thiền học đạo, mới được chút ít kiến giải đã cho là đủ. Than ôi! Cổ kim khác nhau là chổ này vậỵ.
Sách Nhân Thiên Bảo Giám chép:
Thiền sư Trí ở núi Vân Cái, Hồ Nam, ban đêm ngồi trong phương trượng bỗng nghe mùi cháy khét và tiếng gông xiềng, liền thấy có một người mang gong có lửa, ngọn lửa còn cháy bập bùng không dứt, cái đuôi gong tựa vào then cửa.
Trí kinh sợ hỏi:
- Ông là ai mà phải khổ sở thế này?
Người mang gông đáp:
- Tôi tên Thủ Ngung, trước kia trụ ở núi này, vì không biết nên tôi đem vật đàn việt cúng chúng tăng ra tạo tăng đường mà nay tôi phải chịu cái khổ nàỵ
Trí hỏi:
- Làm thế nào để được khỏi ?
Ngung đáp:
- Xin ông vì tôi thiết trai cúng dường chúng tăng bằng giá tăng đường thì tôi có thể khỏị
Trí đem của cải mình bồi thường đúng như lời Ngung nói. Một đêm, nằm mộng thấy Ngung đến nói: “Nhờ sức của thầy, tôi được khỏi khổ địa ngục sanh vào trời người, ba đời sau tôi sẽ được làm tăng”.
Ngày nay cái then cửa hãy còn vết cháỵ
Thanh Quy
Con Vương Kinh Công tên là Phương hay làm điều bất thiện. Sau khi Phương chết, Kinh Công bỗng thấy Phương mang xiềng sắt đứng tựa cửa. Nhân đó, Kinh Công mới sửa nhà thành chùa để truy tiến phước cho Phương ở cõi âm.
Danh Thần Ngôn Hạnh Lục
Thiền sư Sơn Am Thứ Trung nói:
Ngài Nghĩa Ðoạn Nhai ở núi Thiên Mục, Hàng Châu, gặp ngài Cao Phong nhận được y chỉ, người quy hướng rất đông. Sau khi chết, Nhai báo mộng sanh vào nhà họ Tề ở Ngô Hưng; về sau làm tăng tên Thoại Ứng tự Bảo Ðàm, từ nhỏ đến lớn mỗi ngày thọ người lễ bái cúng dường, Lúc tôi ngụ ở Thiên Giới, ngẫu nhiên Bảo Ðàm cũng ở đó, sống với nhau một thời gian khá lâu, tôi quan sát hành vi của ông ấy thấy cũng trung bình như người thường không khác.
Tiền thân thật là người phi thường sao lại liền quên điều đã tu tập đời trước như thế! Người xưa nói: “Thanh văn còn mờ tối lúc xuất thai, Bồ Tát còn u mê khi cách ấm”. Thế nên, người tu hành há chẳng thận trọng ư!
Sơn Am Tạp Lục
Lại nói:
Niên hiệu Hồng Vô, mùa đông năm Canh Tuất, Ðiền Tử Trung từ Phụng Hóa đến thăm tôi ở Thái Bạch, cùng ở chung với nhau một thời gian khá lâu. Một hôm, tôi nói: “Kinh Kim Cang Bát Nhã, cõi Diêm La khen đó là kinh công đức, cho nên người đời tiến công thường hay đọc tụng kinh này”.
Tử Trung bèn thệ thọ trì kinh ấy suốt đời.
Một hôm, nhằm ngày giỗ mẹ, Tử Trung phát tâm tụng kinh này một trăm biến để tiến vong. Buổi sáng, vừa ngồi dậy trên giường mới tụng được chín biến, thấy quỷ tốt dắt một bà lão mang gông đến quỳ trước giường, đầu tóc che mặt, nhìn kỹ mới biết là vong mẫu. Tử Trung bối rối chẳng phải biết làm sao, chốc lát quỷ tốt dẫn đi như là muốn mở gong. Lúc đó, Tử Trung khóc lớn, hận không tụng kinh và hỏi han mẹ kịp thời. Tôi nói: “Công đức kinh này rất lớn, chẳng thể thí dụ được, nên Tử Trung phát tâm trì tụng thì liền thầm cảm được cõi âm khiến cho mẹ con được gặp nhau để cởi sự khổ não. Ô hô! To tát thay!”.
Sơn Am Tạp Lục
Thiền sư Huyền Sa Bị nói:
Ngày nay nếu chẳng được liễu đạt thì sáng mai vào thai lừa bụng kéo cày chở nặng hàm thiết mang yên cối xay mài giã, nấu đốt trong nước sôi lửa bỏng không phải là dễ chịu, phải nên sợ hãi!
Tôn giả Cưu Ma Ða La nói:
Quả thiện ác có ba thời. Kẻ phàm phu chỉ thấy người nhân từ yểu mạng, kẻ hung bạo sống lâu, kẻ ác nghịch gặp điều lành, người trung nghĩa mắc điều dữ, bèn cho rằng không có nhân quả tội phước, mà chẳng biết rằng nhân quả theo nhau như bóng theo hình, như vang theo tiếng không sai một mảy, dẫu cho trải qua trăm nghìn muôn kiếp cũng chẳng tiêu mòn.
Kinh nói:
Giả sử trải qua trăm nghìn kiếp, nghiệp tạo tác cũng chẳng mất. Lúc nhân duyên hội ngộ thì quả báo đến phải tự chịu.
Quốc sư Vô Nghiệp nói:
Than ôi! Ðược thân người như đất dính móng tay, mất thân người như đất khắp quả đất. Thật đau đớn thay!




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/09/2013(Xem: 7851)
Khi bước xuống thuyền vượt biên ai cũng mang đầy hy vọng, mơ ước... Có kẻ mơ ước một tương lai xán lạn ở chân trời mới, có người chỉ mong những giấc mộng bình thường: Ngày hai bữa đủ no, tự do yên ổn...
11/09/2013(Xem: 4359)
Hân tra chìa khóa, mở cửa bước vào phòng làm việc. Căn phòng khá rộng. Diện tích gấp hai sân bóng rổ hầu hết chứa kệ vải. Ở một góc sát cửa sổ nhìn ra ngọn đồi cỏ là chỗ làm việc của Hân với Susan, chiếm 1/6 căn phòng, có một bàn dài, kế đó là những dãy kệ chứa nú
11/09/2013(Xem: 4845)
Hằng năm vào tháng mười, sinh nhật tôi, tôi có thông lệ, trước tiên là tự nhắc mình đóng tiền niêm liễm đến Văn Bút Âu Châu (tôi là hội viên mà), kế đó là cố nặn óc tìm một truyện ngắn về đề tài Sinh Nhật coi như món ăn tinh thần "đãi" quí vị độc giả.
10/09/2013(Xem: 6282)
Một lần nữa, chẳng quản đường xá xa xôi, thời gian, công sức, tôi tìm về tu viện Viên Đức Đức quốc không những gặp lại nhị vị Đại Đức Thích Hạnh Đức, Đại Đức Thích Hạnh Tuệ, tôi đã may mắn tiếp thụ tài thuyết giảng của hai Thầy; một người giảng thật nhẹ nhàng nhưng sâu, một người giảng lôi cuốn hấp dẫn trong khoá tu học do anh em Gia Đình Phật Tử Thụy Sĩ tổ chức vào dịp lễ Phục Sinh hằng năm vừa qua, mà còn hân hoan chào đón thêm 6 vị trong phái đoàn “Hoằng Pháp Âu Châu” do Hòa Thượng Phương Trượng Thích Như Điển tổ chức, một lực lượng hùng hậu chưa từng có từ trước đến nay. Nhìn trong danh sách giảng huấn của phái đoàn, tôi gọi đùa, toàn “Cao thủ võ lâm!” mặc dù không ai là võ sĩ cả mà là tu sĩ!
10/09/2013(Xem: 7756)
“Hậu sinh khả úy“ (kẻ sanh sau thật đáng nể sợ) là câu nói của ngài Khổng Tử, một triết gia Trung Hoa thốt ra khi ngài cùng học trò đi dạo thấy một em nhỏ vọc gạch cát xây thành giữa lối đi, ngài bảo: “Tránh chỗ cho xe ta qua“. Đứa nhỏ đứng dậy, đáp: “Xưa nay, xe tránh thành, chứ thành nào lại tránh xe“. Thấy đứa nhỏ đối đáp thông minh, Khổng Tử xuống xe cùng bé trò chuyện, đưa ra nhiều câu hỏi rất khó khăn, đứa bé đều trả lời thông suốt
09/09/2013(Xem: 5306)
Đối với những ai đã từng ghé Ấn Độ, nghe ngóng, tìm hiểu, quan sát, hẳn không xa lạ gì với thế giới của lực lượng Tăng Ni sinh viên Việt Nam đang du học tại đó. Nhưng với riêng tôi, cho mãi năm 2011 trong chuyến hành hương Tích Lan, tôi mới thực sự biết được bằng mắt thấy tai nghe thế giới lạ đó qua sự giới thiệu của Hòa Thượng Phương Trượng chùa Viên Giác về bốn sinh viên tu sĩ, học tăng từ Ấn Độ.
09/09/2013(Xem: 5360)
Nói đến, viết đến các khóa học Âu Châu, bao năm qua cây viết của tôi đã gần mòn, đã có nhiều bài viết về khóa học, viết đến độ không còn gì để viết. Nào ăn, nào ngủ, nào học, nào chơi... đủ cả. Khỏe cả bên trong, tốt lẫn cả bên ngoài. Thế thì lần này sẽ viết về gì đây?! Xin thưa, viết về “Thiên Đường Hạ Giới“ ạ.
06/09/2013(Xem: 4440)
Từ chùa Từ Đàm, tôi trở lại khóa học, nơi tổ chức khóa tu Âu Châu của mười ngày qua. Sân trường giờ vắng hoe. Thảm cỏ xanh dẫn ra con đường lớn, không còn một bóng người. Vài băng ghế nằm rải rác trên sân cỏ cũng đìu hiu như nhớ, như chờ ai. Bên trong trường học lưa thưa sót lại một số người đang dọn dẹp và một số đang đợi chuyến bay cho ngày hôm sau khi khóa học bế giảng. Hằng ngàn người, mới đó mà...biến mất. Biến như một cơn gió thoảng qua.
06/09/2013(Xem: 8931)
Lý số, đông y là nghề của bố chồng tôi. Không rõ nhờ cụ thực tài hay tại hành nghề miễn phí, không nhận thù lao của khách nên khách của cụ khá đông. Một ngày, năm đó tôi vừa 23 tuổi, có một vị khách đặc biệt đến nhà giữa lúc bố tôi đi vắng. Vị khách tướng tá khác phàm, râu tóc bạc phơ, cốt cách như một tiên ông. Cụ mặc chiếc áo dài the, đầu đội khăn đóng như bố chồng tôi vậy, tay cụ cầm gậy trúc và tự xưng là bạn của bố tôi mặc dù xưa nay tôi chưa hề gặp cụ bao giờ. Tôi mời cụ vào nhà.
29/08/2013(Xem: 10265)
Năm 1983: chúng tôi cạn kiệt khi mua xong đất làm tự viện mà còn thêm nợ nữa. Mảnh đất thật trơ trọi, không nhà cửa, một túp liều cũng không, Suốt mấy tuần lễ đầu chúng tôi phải ngủ trên cánh cửa cũ mua rẻ trong bãi phế liệu. Chúng tôi kê bốn góc gạch làm giường (dĩ nhiên làm gì có nệm – chúng tôi tu ở rừng mà!).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]