Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 4. Trên Đường Thiên Lý

21/06/201317:27(Xem: 8315)
Chương 4. Trên Đường Thiên Lý

Hành trình về Phương Đông

Chương 4. Trên Đường Thiên Lý

Nguyên Phong

Nguồn: Blair T.Spalding. Nguyên Phong

Cuộc gặp gỡ Brahmananda và Sudeih Babu đã thay đổi tất cả. Cho đến lúc đó, phái đoàn mới công nhận rằng đằng sau khu rừng mê tín dị đoan, còn có những chân lý cao siêu đáng học hỏi và nghiên cứu. Sự hiện diện của một vị Chân sư bí mật gửi thông điệp bằng tư tưởng cho Brahmananda và Sudeih Babu, làm phái đoàn phấn khởi, tin tưởng rằng cuộc khảo cứu sẽ còn vượt xa hơn điều họ dự tính.
Cuộc tiếp xúc với Sudeih Babu đã khiến mọi người bắt đầu cởi bỏ các thành kiến dị biệt, các quan niệm bảo thủ và lòng tự hào của người Âu, để bắt đầu quan sát, học hỏi thêm về nền minh triết bí truyền của Á châu.
Phái đoàn bắt đầu cuộc hành trình nhắm hướng Rishkesh trực chỉ. Lúc đầu, đường xá còn tốt nên sự di chuyển còn nhanh chóng, nhưng về sau có những đoạn đường bị ngắt quãng, phái đoàn phải dùng lừa, ngựa hoặc đôi khi phải đi bộ qua các eo núi . Sự kiện một nhóm người Âu, di chuyển trên những con đường độc đáo, hẻo lánh là một điều chưa hề xảy ra. Các sĩ quan quân lực Hoàng Gia đã hết sức ngăn cản vì lý do an ninh. Mặc dù Ấn độ là thuộc địa của Anh, nhưng nhiều địa phương vẫn không hợp tác với chính quyền. Việc di chuyển đòi hỏi sự hộ tống của lực lượng quân đội võ trang đầy đủ. Có nhiều vùng, ngay cả dân địa phương cũng ít dám qua lại, vì có những đảng cướp hoạt động mạnh mẽ. Để đề phòng, phái đoàn đã võ trang cẩn thận, nhưng trong suốt thời gian di chuyển, không hề có một sự kiện đáng tiếc nào xảy ra. Toàn thể mọi người có cảm tưởng như được che chở bởi một quyền năng mạnh mẽ vô hình.
Trên đường, phái đoàn đi qua một đền thờ của đạo Jain. Căn bản của tôn giáo này xây dựng trên chủ trương mở rộng lòng từ bi (Ahimsa). Tín đồ đạo Jain thực hành lý tưởng Ahimsa triệt để, đôi khi có vẻ quá khích. Đạo Jain được thành lập hơn 2000 năm, do đức Mahavira, một vị hoàng tử đã từ bỏ cung vàng, điện ngọc vào rừng tu hành và đắc đạo. Ngay khi bước chân vào đền, người ta đã thấy ngay pho tượng đức Mahavira ngồi thiền, trên trán có gắn một viên kim cương lớn. Trước khi vào đây, du khách phải cởi thắt lưng, giày dép, những vật gì làm bằng da thú, sừng, ngà voi, v…v… Tất cả các vật do sự giết chóc mà ra. Sở dĩ phải làm thế, vì giáo lý Ahimsa dạy các tín đồ phái này không được sát sinh, ăn thịt cá, mà ngay trong nhà cũng không được chứa một thứ gì của sự giết chóc. Các giáo sĩ đạo Jain mặc toàn đồ trắng, trên mặt bịt một miếng vải thưa chỉ chừa đôi mắt. Họ làm thế để tránh loài ruồi, muỗi khỏi bay lọt vào mũi, miệng. Vì lòng từ bi (Ahimsa) bao trùm tất cả, lỡ có sâu bọ nào vô phúc bay lọt vào rồi nằm lì trong đó thì phạm tội sát sinh. Không những thế, các giáo sĩ đạo Jain mỗi năm phải nhập thất một lần trong suốt ba tháng hè, vì thời gian đó côn trùng sinh sản nhiều, nếu di chuyển sợ dẫm lên chúng.
Đối với người Âu, việc thực hành Ahimsa có vẻ quá khích, và vô lý, nhưng phần đông phái này thực hành giới luật rất nghiêm chỉnh. Họ tin rằng nếu các giới luật mà không giữ được thì không hy vọng gì đi xa hơn trên đường tu học.
Một số giáo sĩ Jain còn “quá khích” hơn nữa. Sau một thời gian tu ở trong đền, họ phát nguyện vào rừng tu và sống loã thể. Họ chỉ uống nước suối, ăn trái cây, và dành trọn thời giờ thiền định. Họ quan niệm rằng khi còn ăn cơm gạo, mặc y phục là còn mang nợ xã hội. Còn hưởng những vật dâng cúng của tín đồ là còn mang nợ loài người. Khi tu là phải ly khai với đời, từ bỏ tất cả, không bận tâm đến bất cứ chuyện gì của thế gian, như của cải, vật chất, và ngay cả mảnh vải che thân. Đạo Jain cho rằng xuất gia phải tuyệt tất cả ý niệm sở hữu, vì sở hữu bất cứ gì đều là ràng buộc, níu kéo đưa đến sự quyến luyến, gây chướng ngại cho việc tu hành giải thoát. Ngay cả các đền thờ đẹp đẽ cũng phải từ bỏ để vào rừng lấy đất làm giường, lấy trời làm nhà, và thú rừng làm bạn. Họ dành tất cả thời giờ để thiền định về ý niệm mở rộng lòng thương đến muôn loài. Nhiều tu sĩ ngồi thiền mà thú rừng kéo đến quấn quít chung quanh, không hề sợ hãi. Các học giả người Âu đã gọi tôn giáo này là phái “Loã thể”, vì quan niệm từ bỏ triệt để này. Điều đáng tiếc là danh từ “Loã thể” thường bị đồng hoá với các sự kiện xấu xa, mọi rợ, thiếu văn minh. Khi người Anh đến cai trị xứ này, rất nhiều tu sĩ đạo Jain đã bị bắt giam vì tội xâm phạm thuần phong mỹ tục, mặc dù họ chỉ sống trong rừng không tiếp xúc với xã hội. Khi gác bỏ các thành kiến dị biệt, phong tục và tập quán, phái đoàn thấy đạo Jain chủ trương rất thực tế. Giáo phái này tin tưởng rằng sức mạnh của tình thương có thể san bằng mọi khó khăn, trở ngại. Tuy nhiên, tình thương phải hết sức tuyệt đối. Mục đích của nó không giới hạn vào một hạng người nào riêng biệt, mà phải được ban rải đồng đều cho tất cả, không phân biệt giai cấp, chủng tộc hay tín ngưỡng. Đây là một cải cách hết sức lớn lao vì phong tục Ấn độ vốn rất thiên vị, và chủ trương dị biệt giai cấp. Tín đồ đạo Jain tin rằng, con người dù mạnh hay yếu, sang hay hèn, trung lưu hay hay hạ lưu, bình dân hay vua chúa, đều thụ hưởng lòng thương như nhau. Lòng thương chẳng những phải bao la, mà còn nồng nàn như tình mẹ con, không quản ngại khó khăn, nguy hiểm. Lòng thương phải chân thành, thâm thúy phát ra từ đáy lòng, không thể giả dối , hay vị nể một hoàn cảnh nào. Sau khi ban rãi tình thương khắp đồng loại, còn phải ban rãi đến loài vật, từ con voi to lớn đến các côn trùng nhỏ nhen. Do đó, họ tránh sát sinh đã đành mà còn không sử dụng bất cứ vật dụng gì do sự giết chóc mang lại. Đạo Jain cho rằng chiến thắng kẻ thù bằng sức mạnh là một thú tánh cần loại trừ, nhưng chinh phục bằng tình thương là đường lối duy nhất để giải quyết mọi việc.
Đạo Jain có khá đông tín đồ, phát triển mạnh tại miền bắc Ấn độ, nhưng không đi đến các nơi khác, vì gặp phải sức chống đối của Ấn độ giáo và Hồi giáo. Lịch sử Ấn độ ghi nhận Hồi giáo đã tiêu diệt Phật giáo và đạo Jain một cách hết sức dã man. Hơn nữa, quy luật khắc khe của tôn giáo này không mấy ai theo nổi, và các tu sĩ bịt mặt, loã thể dễ bị người đời ngộ nhận. Có lẽ thế, nên tôn giáo này chỉ bành trướng trong các vùng hẻo lánh miền sơn cước.
Ashmah là một làng nhỏ, nằm sát chân núi. Phái đoàn dừng chân ở đây một thời gian cho lừa, ngựa nghỉ ngơi. Một lý do nữa là gần đó có một di tích lịch sử quan trọng : Ngôi đền yên lặng.
Đó là một ngôi đền kiến trúc bằng đá trắng, xây cất hơn 4000 năm naỵ Trong đền không có hình tượng gì, mà chỉ là một căn phòng to lớn, trang nghiêm. Bước vào ngôi đền yên tĩnh, tất cả mọi người đều thấy trong lòng bỗng lắng xuống một cảm giác bình an khôn tả. Tục truyền, hoàng đế Rapoor mang quân đi chinh phục các nước láng giềng, đã gặp một vị đạo sĩ nơi đây. Đạo sĩ khuyên vua nên bỏ ý định chinh phục bằng sức mạnh, mà chỉ nên lấy nhân nghĩa mà đối xử với người. Nhà vua nghe theo, ra lệnh bãi binh, khuyến khích dân chúng sống theo đạo hạnh. Từ đó vương quốc Rapoor được hưởng một nền thái bình, thịnh trị.
Thời gian trôi qua, đến nay chẳng còn mấy ai biết đến thời đại của hoàng đế này, nhưng ngôi đền xây cất để kỷ niệm sự tỉnh ngộ của nhà vua vẫn còn tồn tại. Khi bước chân vào đ6y, không ai được nói một lời nào, mà phải tuyệt đối giữ yên lặng. Lý do ngôi đền không có hình tượng gì là để nói lên cái chân lý tuyệt đối vốn vô hình, vô tướng. Vị đạo sĩ giữ đền đã giải thích cho phái đoàn.
- Đền yên lặng là nơi chỗ của quyền năng , vì yên lặng đồng nghĩa với quyền năng. Khi con người đạt đến chỗ im lặng trong tư tưởng thì họ đã đến chỗ mà tất cả đều là sự hợp nhất với quyền năng thiêng liêng. Con người có sức mạnh tư tưởng nhưng vì vô ý thức, họ đã để cho nó hao tán. Qưyền năng hao tán là Động, còn tập trung là Tĩnh. Khi tập trung mọi sức mạnh tư tưởng vào một trung tâm sinh lực duy nhất, con người tiếp xúc với thượng đế. Khi hợp nhất với đấng thiêng liêng, ta hợp nhất với mọi quyền năng và đó là di sản tâm linh tối hậu. Phương pháp duy nhất để hoà hợp với đấng thiêng liêng, là tiếp xúc với ngài một cách ý thức, từ bỏ ngoại cảnh, để quay về với nội tâm, vì đấng thiêng liêng ẩn tàng trong tâm con người. Khi con người từ bỏ ảo giác của kiêu mạn, bản ngã, nhận thức sự vô minh, hèn kém của mình và sẵn sàng học hỏi, sửa đổi, đó là tu thân. Người ta không thể dạy bảo điều gì cho những cá nhân kiêu căng, tự phụ, vì chỉ có người khiêm tốn mới thấy được chân lý. Đấng thiêng liêng không nghe các lời cầu xin ồn ào, lập đi lập lại mà chỉ nghe những lời cầu nguyện chân thành của những kẻ đến với ngài bằng trái tim, sùng kính ngài bằng tâm hồn và sự im lặng. Kẻ nào tiếp xúc với ngài trong ầm thầm sẽ nhận biết quyền năng của ngài do sự thực hiện các điều mong muốn của họ.
- Nhưng nếu không cầu nguyện theo mọi sách vở, thánh kinh làm sao tín đồ có thể hiểu biết về tôn giáo mà họ đang theo đuổi ?
- Minh triết phát sanh từ sự yên lặng. Thượng đế không cần ta phải tuyên dương ngài một cách ồn ào hay bằng một ngôn ngữ gì. Khi một tín đồ thànht âm trong tĩnh lặng, y sẽ hoà hợp tư tưởng với ảnh hưởng thiêng liêng; và ảnh hưởng này chỉ có thể nhận biết được khi lòng ta vắng lặng. Khi tâm hồn hoàn toàn an tĩnh, ta có thể tự phân tích mình, trau dồi phẩm hạnh và đón nhận những mặc khải từ cõi trên. Chỉ trong sự vắng lặng, con người mới ý thức năng lực trong mình, và chung quanh mình. Chỉ trong yên lặng các quyền năng tiềm ẩn mới phát sinh và nẩy nở. Tâm có an thì việc bên ngoài mới koh6ng vọng động, dục vọng mới chịu yên tĩnh. Con người có giải thoát các ồn ào, náo nhiệt bên ngoài, thì mới đón nhận được các hoà âm tuyệt diệu đến từ cõi vô biên. Con người cần khám phá rằng hạnh phúc ở trong tâm mình. Hiện nay phần lớn đều tìm kiếm hạnh phúc bên ngoài, nhưng ngoại cảnh chỉ đem lại các giải trí trong chốc lát, thay vì hạnh phúc vô biên. Tất cả phương pháp tìm kiếm bên ngoài đều vô vọng. Con người phải biết quay về nội tâm vì mọi hình tướng, nghi thức đều là sự áp chế.
- Nhưng làm sao tìm thấy điều gì khi ngồi yên lặng ?
- Con người sẽ dần dần ý thức được chính mình. Dĩ nhiên, điều này đòi hỏi một thời gian. Họ sẽ tìm thấy ở mình một thứ hạnh phúc không lệ thuộc ngoại vật, cũng không lệ thuộc tha nhân. Một tâm trạng giải thoát không ai có thể cướp được, đó là tâm trạng “tôn giáo”, kết tinh bởi sự nẩy nở, thăng hoa các ý thức sâu kín trong nội tâm. Con người sẽ tự mình tìm thấy câu giải đáp khi họ ý thức thực chất của chính mình, và ảnh hưởng cao cả của thượng đế. Chỉ khi đó, mọi sự tìm kiếm ở ngoại cảnh sẽ chấm dứt.
- Những điều ông nói rất hay, nhưng nếu không có sách vở chỉ dẫn, làm sao con người biết đâu mà tìm để đạt đến trạng thái đó ?
- Đa số người Âu chỉ quen hoạt động và ỷ lại vào một phương pháp, giáo lý hướng dẫn cuộc đời. Do đó, họ dễ bị hướng dẫn sai lạc, lầm lẫn. Phải tự mình suy gẫm và tìm lấy con đưòong cho chính mình mới là phương pháp đứng đắn. Con đường giải thoát đòi hỏi can đảm và nổ lực cá nhân, vì không đường nào giống đường nào. Lịch sử cho thấy có biết bao tôn giáo rao truyền chân lý cực kỳ tốt đẹp, nhưng có mấy tín đồ nghiên cứu tường tận ? Đa số đều ỷ lại vào các giáo sĩ chỉ dẫn. Chính các giáo sĩ còn chưa giải thoát chính mình, thì còn cứu độ cho ai nữa ? Đó là lý do hoàng đế Rapoor xây dựng ngôi đền yên lặng và trong đó không có một pho tượng, một hình ảnh hay ngôn ngữ nào, để tránh đi vào con đường của các tông phái Ấn giáo. Thượng đế ở khắp mọi nơi và tuyệt đối, ngôn ngữ, hình ảnh không thể diễn tả được. Chỉ trong sự im lặng hoàn toàn phá bỏ tất cả hình tướng, nghi thức, con người mới tự do sống bình an với nhau, hiểu sự liên quan giữa y và những người đồng loại. Con người thường suy tư về sự liên hệ giữa người với người, nhưng sự suy tư này ít nhiều đều thiên vị. Nó luôn luôn sai lạc nếu nó khảo sát sự vật xuyên qua bản ngã. Tư tưởng con người chỉ chân chính khi họ giải thoát khỏi các thành kiến, điều kiện bao bọc bên ngoài. Tự do tư tưởng không phải chỉ là muốn nghĩ thế nào thì nghĩ, mà còn là giải thoát ta ra khỏi các áp lực bắt ta phải suy nghĩ theo một lề lối riêng. Đây là một chân lý chỉ tìm thấy trong sự yên lặng, trong sự cởi bỏ mọi nghi thức, hình tướng, ngôn từ, các thành kiến dị biệt, các cưỡng bách tư tưởng, các sợ hãi bắt nguồn từ vô minh . Chỉ khi nào hoàn toàn tự do, con người mới thực sự bình an và giải thoát.
Phái đoàn từ giã vị giáo sĩ coi đền. Cuộc viếng thăm tuy ngắn ngủi nhưng đã gây một ấn tượng tốt đẹp với mọi người. Hình như có một luồng từ điện vô hình phảng phất quanh ngôi đền, khiến ai cũng thấy trong lòng dào dạt một sự bình an khó tả. Lối tu trong yên lặng không còn là một vấn đề trừu tượng, vô ích như họ nghĩ. Qủa thật xứ Ấn còn rất nhiều điều để cho người Âu học hỏi và suy nghĩ.




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/04/2019(Xem: 8527)
Nó bị người ta tra tấn hành hạ rất dã man, quá đói mà không có gì ăn phải ăn cả vỏ bánh kẹo của du khách, bây giờ nó đã được giải thoát và sống cuộc sống vui vẻ, tự do. Trong suốt 50 năm, chú voi Raju sống một kiếp sống nô lệ. Không ai biết cuộc đời trước kia của nó là như thế nào, chỉ biết rằng nó đã bị bắt cóc khỏi mẹ và tách khỏi bầy từ khi còn rất nhỏ, rồi được bán đi bán lại qua tay của 27 người chủ khác nhau như một món hàng hóa, để rồi cuối cùng chôn vùi cuộc đời mình tại một sở thú ở bang Uttar Pradesh, Ấn Độ.
30/03/2019(Xem: 7996)
Sách của Hòa Thượng Thích Như Điển đã có trên Amazon, ĐH Nguyên Minh, ĐH Nguyên Đạo đã rất nhiệt tình và đã bắt đầu đưa dùm những sách của tôi viết cũng như dịch lên trang Amazon, Xin niệm ân TT Nguyên Tạng, Thầy Hạnh Tuệ cũng như ĐH Nguyên Minh, ĐH Nguyên Đạo, Đh Quảng Pháp Triết Trần, Đh Tân Thường Định rất nhiều về việc nầy để đưa những tác phẩm này đến với độc giả gần xa.
24/03/2019(Xem: 4007)
Mẹ kể: Năm 1960. Khi em bé Mười Dư chào đời, xuất hiện trong nhà như một thiên thần lạ lẫm thì cậu bé anh kề, thứ Mười (sinh năm 1958), quý em bé lắm. Anh thương em lắm lắm.
24/03/2019(Xem: 3764)
Ở bên Ấn Độ thời xưa Trong vương quốc nọ gió mưa thuận hoà Ngựa vua quý báu, kiêu sa Mỗi khi tắm táp hay ra phía ngoài Nơi dòng sông chảy khoan thai Có vùng nước cạn các nài thường quen Thường mang ngựa tắm nhiều phen Từ lâu vẫn ghé qua bên sông này.
21/03/2019(Xem: 4089)
Ba cô người mẫu Hollywood bất ngờ xuất hiện tại một khu thương mại sầm uất của Thành Phố Mumbai. Vẻ đẹp thiên kiều bá mị, thân hình quá hấp dẫn, ăn mặc hở hang của ba cô đã làm khu phố rộn cả lên. Trẻ con thì bám theo reo hò. Phó nhòm của các báo lá cải đua nhau chụp hình rồi về đưa lên trang nhất hoặc trang tin điện tử của Yahoo News. Những báo này được bày bán ở các siêu thị ở Mỹ cho tầng lớp “bình dân giáo dục” thích đọc chuyện tình ái lăng nhăng, mông to, vú lớn, chân dài, ly dị, ngoại tình, giày dép, kính đeo mắt, quần áo, đồ lót, nữ trang, ví xách tay của các cô đào, người mẫu, công nương, hoàng tử…xem xong thì quăng vào sọt rác. Nếu còn ở Việt Nam thì xếp đống rồi đem bán ký-lô kiếm tiền tiêu vặt.
16/03/2019(Xem: 3618)
Đường của ruộng, lúa đồng phả hương con gái, phất phơ gió mùa mơn mởn làng quê.Vẫn tên giòng nước năm xưa soi bóng lũy tre, uốn mình dọc bờ về quê ngoại; cánh cò điểm trắng nền xanh lúa mạ, nước Hương Giang tiếp sức cổ thành.
04/03/2019(Xem: 4913)
Ngoài địa danh cầu Thủ Huồng, ở Đồng Nai còn có những địa danh khác như chùa Thủ Huồng, rạch Thủ Huồng đều gắn liền sự tích một nhân vật có thật tên Thủ Huồng đã được ghi trong sử sách.
28/02/2019(Xem: 3900)
Mới hồi trưa nay, ngủ say với 'thử thể bất an" rã rời mệt mỏi, tôi mơ thấy Sư Tổ Bồ Đề Đạt Ma. Tôi vội quỳ sụp xuống, dập đầu lạy liên tục, mà lúc đó vẫn thấy biết là mình đang rúng động tâm can, ngập tràn hạnh phúc... - Con kính bái Tổ Sư... - Hứ!
26/02/2019(Xem: 8377)
Hai nhà buôn thuở xa xưa Vẫn thường liên lạc thư từ với nhau Ông già thành thị rất giàu Ở Ba La Nại từ lâu đời rồi Chàng kia ở phía xa xôi Nơi làng biên giới ít người ghé đây,
25/02/2019(Xem: 15547)
Bức Tượng Phật ngồi lưng vua độc nhất Việt Nam ở Hà nội, Vua Lê Hy Tông cho tạc tượng đặt trong chùa Hòe Nhai để bày tỏ sám hối vì đã cư xử sai lầm với đạo Phật
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]