Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

3. SỰ TÍCH PHẬT LỰC THỨ BA

30/05/201318:30(Xem: 6612)
3. SỰ TÍCH PHẬT LỰC THỨ BA

 

Tám Sự Tích Phật Lực

Tỳ khưu Hộ Pháp
(Dhammarakkhita Bhikkhu)

Phật lịch 2545 (TL 2001)

---o0o---

SỰ TÍCH PHẬT LỰC THỨ BA

ĐỨC PHẬT CẢM THẮNG VOI NÀLÀGIRI

-ooOoo-

Đức Phật cảm thắng được voi Nàlàgiri, do nhờ tâm từ.

(Bộ Chú giải Jàtaka..., bộ Vinayapitaka...)

Hoàng tử Devadatta là hoàng huynh của Công chúa Yasodharà, cả hai là con của Đức vua Suppabuddha dòng Sakya, (cậu ruột của Thái tử Siddhattha) và Hoàng hậu Amittà (cô ruột của thái tử Siddhattha). Như vậy Hoàng tử Devadatta vừa là anh em cô cậu, vừa là anh vợ của Thái tử Siddhattha.

Thái tử Siddhattha đi xuất gia, trở thành bậc Chánh Đẳng Giác, một thời gian sau, Ngài ngự trở về kinh thành Kapilavatthu để tế độ phụ vương Suddhodana cùng hoàng tộc Sakya. Đức vua Suddhodana động viên, khuyến khích các Hoàng tử dòng Sakya đi xuất gia theo Đức Phật, cùng một lúc có 1.000 Hoàng tử xuất gia trở thành Tỳ khưu và đều chứng đắc thành bậc Thánh Arahán. Sau đó Hoàng tử Devadatta cũng đi xuất gia trở thành Tỳ khưu cùng với năm Hoàng tử khác là: Hoàng tử Bhaddiya, Anuruddha, Ànanda, Bhagu và Hoàng tử Kimila. Sau khi trở thành Tỳ khưu các Ngài Đại Đức Bhaddiya, Đại Đức Anuruddha, Đại Đức Bhagu và Đại Đức Kimila đều chứng đắc thành bậc Thánh Arahán trong thời kỳ Đức Phật còn tại thế; còn Đại Đức Ànanda chỉ chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu, về sau khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn khoảng ba tháng bốn ngày sau mới chứng đắc thành bậc thánh Arahán. Riêng Tỳ khưu Devadatta chỉ chứng đắc bát thiền thế gian (4 bậc thiền hữu sắc và 4 bậc thiền vô sắc) và đắc thần thông, vẫn còn là phàm nhân, không phải là bậc Thánh nhân.

Một thuở nọ, Đức Phật cùng chư Tỳ khưu Tăng đang ngự tại xứ Kosambì, các nhà phú hộ, vua chúa phát sanh đức tin trong sạch nơi Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng, hàng ngày đem nhiều lễ vật đến cúng dường Đức Phật cùng chư Đại Đức Sàriputta, Đại Đức Moggallànà, Đại Đức Mahàkassapa, Đại Đức Bhaddiya, Đại Đức Anuruddha, Đại đức Ànanda..., còn Tỳ khưu Devadatta ít ai hỏi đến và cũng ít ai dâng cúng đặc biệt gì cả.

Thế là Tỳ khưu Devadatta cảm thấy tự ái: "vốn ta cũng là Hoàng tử xuất thân từ dòng Sakya đi xuất gia trở thành Tỳ khưu, sao ít ai dâng cúng đến ta, ta không có nhiều lợi lộc". Rồi lại nghĩ: "Bằng cách nào để cho ta có quyền thế và có nhiều lợi lộc, ta không thể nào làm thân với Đức vua , các nhà phú hộ, vì những vị này có đức tin trong sạch nơi Đức Phật và các bậc Thánh nhân. Ta không dễ gì làm cho quý vị ấy tin ở ta được. Đức vua Bimbisàra có thái tử Ajàtasattu còn nhỏ dại, chưa phân biệt rõ thiện - bất thiện, phước - tội... ta có thể thuyết phục Thái tử tin theo ta được".

Nghĩ xong, từ Kosambi Tỳ khưu Devadatta đi đến kinh thành Ràjagaha dùng thần thông hoá ra một đứa trẻ; từ hai tay, hai chân, cổ và đầu mỗi nơi hóa ra một con rắn, có sáu con rắn, mỗi con quấn vào người, bay lên hư không, đáp xuống ngồi trọn vào vế của thái tử Ajàtasattu.

Ajàtasattu sợ hãi hỏi: Ngươi là ai?

- Thưa Thái tử, tôi là Tỳ khưu Devadatta - Tỳ khưu Devadatta thưa.

- Xin Ngài hóa trở lại con người thật đi! - Thái tử yêu cầu.

Tỳ khưu Devadatta hoá trở lại là Tỳ khưu mặc y mang bát đứng trước mặt Thái tử.

Thái tử vô cùng cảm phục phép thần thông của Tỳ khưu Devadatta, phát sanh đức tin nơi Tỳ khưu Devadatta, cho nên mỗi ngày sai lính đem 500 cỗ xe chở cơm và thức ăn đến dâng cúng.

Lợi lộc làm cho tâm tham của Tỳ khưu Devadatta càng thêm đen tối, nên tham vọng ngông cuồng phát sanh: "Ta nên làm một vị Phật, cai quản nhóm Tỳ khưu Tăng".

Do nghĩ sai lầm như vậy, nên các bậc thiền và phép thần thông của Tỳ khưu Devadatta bị hư mất ngay.

Sau đó, Đức Phật từ xứ Kosambi cùng chư Tỳ khưu Tăng du hành đến kinh thành Ràjagaha, ngự tại chùa Veluvana. Khi ấy chư Tỳ khưu đến bạch với Đức Phật về việc Tỳ khưu Devadatta đến thân cận với thái tử Ajàtasattu, mỗi ngày Thái tử sai lính đem 500 cỗ xe chở 500 nồi cơm và đồ ăn đến cúng dường Tỳ khưu Devadatta.

Đức Phật dạy:

- Này chư Tỳ khưu, danh và lợi phát sanh đối với Devadatta để tự hại mình, tự giết mình.

Này chư Tỳ khưu, cũng ví như:

Cây chuối trổ buồng ra trái chín, tự hại mình.

Cây tre trổ cờ ra hột, tự hại mình

Cây sậy trổ cờ, tự hại mình.

Ngựa Assatara có thai đúng tháng ngày sanh, hại ngựa mẹ.

Cũng như vậy, danh và lợi đối với Devadatta để tự hại mình, tự giết mình.

LẦN ĐẦU TIÊN TỲ KHƯU DEVADATTA OAN TRÁI VỚI ĐỨC PHẬT

Một hôm, Đức Phật thuyết pháp giữa số đông các hàng Phật tử, chư Tỳ khưu, Tỳ khưu ni, Đức vua, phú hộ, dân chúng,... có Tỳ khưu Devadatta ngồi trong nhóm chư Tỳ khưu Tăng, Devadatta quỳ chấp tay bạch Đức Thế Tôn rằng:

- Kính bạch Đức Thế Tôn, bây giờ Ngài đã già rồi, lớn tuổi, quá thời lão niên.

Kính bạch Đức Thế Tôn, kính thỉnh Ngài nghỉ ngơi, an dưỡng tuổi già, giao cho con lo việc cai quản chư Tỳ khưu Tăng, con lãnh đạo chư Tỳ khưu Tăng.

Đức Phật nghe Devadatta bạch như vậy bèn dạy rằng:

- Này Devadatta, chẳng nên vậy đâu! Con chớ nên có tham vọng lãnh đạo chư Tỳ khưu Tăng.

Tỳ khưu Devadatta bạch lần thứ nhì và lần thứ ba cũng như vậy, và cả ba lần Đức Phật đều không chấp thuận. Ngài dạy:

- Này Devadatta, đối với Sàriputta và Moggallàna mà Như Lai cũng không trao quyền lãnh đạo chư Tỳ khưu Tăng, huống hồ đối với con, là người tham đắm trong lợi lộc thấp hèn, như dùng đồ nước miếng, làm sao Như Lai trao quyền hành cho con được.

Tỳ khưu Devadatta nghe Đức Phật ca tụng Đại Đức Sàriputta và Đại Đức Moggallàna, còn chê trách mình dùng vật dụng phát sanh không trong sạch, như đồ nước miếng, giữa các hàng Phật tử, nên tức giận đảnh lễ Đức Phật bỏ đi ra.

Tỳ khưu Devadatta đến gặp thái tử Ajàtasattu, khuyến dụ thái tử nên giết vua cha lên ngôi vua, còn y sẽ giết Đức Phật rồi thay thế Phật.

Thái tử Ajàtasattu mang con dao lén vào phòng chờ giết vua cha, bị bại lộ, các quan bắt quả tang dẫn đến trình Đức vua Bimbisàra phán xét.

Đức vua tra hỏi thái tử:

- Này hoàng nhi, tại sao con có ý định giết cha?

- "Tâu phụ vương, con muốn lên ngôi làm vua." -Thái tử tâu.

Đức vua dạy rằng:

- Này hoàng nhi, con muốn lên ngôi thì cha truyền ngôi vua lại cho con.

Đức vua Bimbisàra truyền ngôi, làm lễ đăng quang thái tử Ajàtasattu lên ngôi vua ở kinh thành Ràjagaha trị vì xứ Magadha.

Thái tử Ajàtasattu được lên ngôi vua, tâm vô cùng hoan hỷ báo tin mừng cho Tỳ khưu Devadatta, Tỳ khưu Devadatta ác tâm bày kế giết Đức vua Bimbisàra để trừ hậu họa giành lại ngôi báu.

Đức vua Ajàtasattu bắt vua cha giam trong nhà tù, lệnh cấm đem vật thực nuôi dưỡng và cấm không được ai đến thăm viếng ngoại trừ mẫu hậu, về sau cũng cấm luôn mẫu hậu.

Thái thượng hoàng Bimbisàra không có vật thực nuôi dưỡng thân thể, nhưng nhờ nhập Thánh quả định Nhập Lưu và đi kinh hành nên vẫn kéo dài sự sống còn. Vua Ajàtasattu biết vậy, cho người thợ cạo đem dao rạch bàn chân [*] xoa dầu, xát muối, hơ lửa không còn đi được nữa, về sau không lâu, đức Thái thượng hoàng băng hà tái sanh làm thiên nam ở cõi Tứ đại thiên vương tên là Janavasabha.

[*] Tiền kiếp của Đức vua Bimbisàra đã từng mang dép đi lên xung quanh bảo tháp hoặc quanh cội Bồ Đề..., nên kiếp này phải chịu quả bị rạch 2 bàn chân.

Thái thượng hoàng Bimbisàra băng hà cùng ngày với Hoàng tử Udayabhadda con của Đức vua Ajàtasattu hạ sanh.

Các quan trước tiên tâu Đức vua rằng:

- Tâu bệ hạ, Hoàng hậu đã hạ sanh Hoàng tử.

Đức vua nghe các quan tâu như vậy, tình thương con dạt dào trổi lên nghĩ rằng: "khi ta sanh ra đời, chắc chắn phụ hoàng ta cũng thương ta như vậy".

Đức vua liền ra lệnh:

- Các quan hãy đi mau, thả phụ hoàng ta ra!

Nhưng hỡi ôi! còn người đâu mà thả ra được nữa!

Các quan tiếp theo tâu rằng: Thái thượng hoàng đã băng hà hôm nay rồi!

Đức vua Ajàtasattu vô cùng hối tiếc đi tìm mẫu hậu, nghe mẫu hậu thuật lại, biết rõ tình thương con của phụ hoàng vô hạn, Đức vua khóc than thảm thiết, tổ chức làm lễ táng phụ hoàng rất trọng thể.

Đức vua Ajàtasattu nghe lời Tỳ khưu Devadatta phạm trọng tội giết cha thuộc ngũ vô gián nghiệp.

TỲ KHƯU DEVADATTA ÂM MƯU GIẾT ĐỨC PHẬT

Một hôm Tỳ khưu Devadatta tìm đến vua Ajàtasattu và yêu cầu Đức vua tuyển chọn một số tay thiện xạ về cung nỏ để giết Đức Phật. Đức vua chấp thuận, truyền lệnh gọi quân lính đến bảo rằng: Các ngươi hãy chấp hành theo lệnh của Ngài Devadatta.

Devadatta bí mật chia thành năm nhóm, mỗi nhóm hoàn toàn không biết nhau, chỉ tuân hành theo lệnh của y, nhóm thứ nhất một xạ thủ, Tỳ khưu Devadatta ra lệnh rằng:

- "Ngươi hãy đến giết Sa môn Gotama ở chỗ này, sau khi giết Sa môn Gotama xong, đi theo con đường này trở về lãnh thưởng".

Nhóm thứ nhì có 2 xạ thủ, Tỳ khưu Devadatta ra lệnh:

- "Hai ngươi hãy giết người từ con đường này trở lại, rồi đi theo con đường này trở về lãnh thưởng".

Nhóm thứ ba có 4 xạ thủ, Tỳ khưu Devadatta ra lệnh:

- "Các ngươi hãy giết hai người từ con đường này trở lại, rồi đi theo con đường này trở về lãnh thưởng".

Nhóm thứ tư có 8 xạ thủ, Tỳ khưu Devadatta ra lệnh:

- "Các ngươi hãy giết bốn người từ con đường này trở lại, rồi đi theo con đường này trở về lãnh thưởng".

Nhóm thứ năm có 16 xạ thủ, Tỳ khưu Devadatta ra lệnh:

- "Các ngươi hãy giết tám người từ con đường này trở lại, rồi đi theo con đường này trở về lãnh thưởng".

THI HÀNH LỆNH TỲ KHƯU DEVADATTA

Nhóm thứ nhất, một xạ thủ, mang cung nỏ đến chỗ mà Tỳ khưu Devadatta đã chỉ định, nhìn thấy Đức Phật, khi đến gần phát sanh tâm run sợ đến nỗi cứng đơ người, không cử động được. Đức Phật bèn gọi:

- Này con, con đừng sợ, hãy lại đây với Như Lai.

Người xạ thủ lắng nghe giọng nói dịu dàng, ngọt ngào phát ra từ tâm đại bi của Đức Phật, tâm trở lại bình tĩnh an lạc, thân cử động được, ném bỏ cung nỏ, cung kính đến hầu đảnh lễ dưới chân Ngài, quỳ xin tạ tội. Đức Phật tha tội rồi thuyết pháp tế độ, người xạthủ lắng nghe pháp, rồi thực hành theo lời giáo huấn của Ngài, liền chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo, Nhập Lưu Thánh Quả trở thành bậc Thánh Nhập Lưu, xin quy y nơi Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng. Đức Phật chấp thuận cho Quy y theo Siêu tam giới (lokuttarasarana), rồi Ngài dạy rằng:

- Con chớ nên trở về theo con đường do Tỳ khưu Devadatta chỉ dẫn, mà con nên đi theo con đường này sẽ được an toàn tánh mạng.

Nhóm thứ nhì có hai xạ thủ mai phục trên con đường chờ xạ thủ thứ nhất trở lại, chờ lâu không thấy, lần theo con đường ấy thì nhìn thấy Đức Phật ngồi một mình, hai người xạ thủ liền bỏ cung nỏ đến hầu đảnh lễ Ngài, ngồi nghe pháp rồi thực hành theo lời giáo huấn của Ngài, liền chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo, Nhập Lưu Thánh Quả trở thành bậc Thánh Nhập Lưu rồi xin quy y nơi Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng, Đức Phật chấp thuận cho quy y theo Siêu tam giới, rồi Đức Phật chỉ dạy:

- Các con chớ nên trở về theo con đường do Tỳ khưu Devadatta chỉ dẫn, mà nên đi theo con đường này sẽ được an toàn tánh mạng. Nhóm thứ ba có 4 xạ thủ, nhóm thứ tư có 8 xạ thủ, nhóm thứ năm có 16 xạ thủ, mỗi nhóm chờ lâu không thấy, đi lần theo con đường ấy thì nhìn thấy Đức Phật ngồi một mình, họ bỏ cung nỏ đến hầu đảnh lễ Ngài, ngồi nghe pháp rồi thực hành theo lời giáo huấn của Ngài, liền chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo, Nhập Lưu Thánh Quả trở thành bậc Thánh Nhập Lưu rồi xin quy y nơi Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng, Đức Phật chấp thuận cho Quy y theo Siêu tam giới.

Người xạ thủ thứ nhất trở về vào trình với Tỳ khưu Devadatta:

- Con không thể giết Đức Phật được, Ngài là bậc đại oai lực, khi con nhìn thấy đã phát run sợ đến nỗi đứng đơ người không cử động được. Nhờ tâm đại bi của Đức Phật gọi con đến, con mới hoàn hồn tỉnh lại, thân mới cử động được....

Tỳ khưu Devadatta nghe trình như vậy, la hét:

- Thôi thế là đủ! Ngươi giết Sa môn Gotama không được, vậy tự tay ta giết.

TỲ KHƯU DEVADATTA CỐ GIẾT ĐỨC PHẬT

Sau lần âm mưu ra lệnh cho các xạ thủ giết chết Đức Phật không thành, Tỳ khưu Devadatta rất căm tức muốn tự mình giết Đức Phật. Một hôm, Đức Thế Tôn đang đi kinh hành dưới chân núi Gijjhakùta, Tỳ khưu Devadatta nghĩ đây là cơ hội tốt nhất để giết Đức Phật, ông liền mò leo lên đỉnh núi, quan sát đường lăn tảng đá xuống, rồi dùng cây làm đòn bẩy bật một tảng đá lớn lăn xuống chỗ Đức Phật đang đi kinh hành với tác ý ác tâm giết Đức Phật. Tảng đá lớn lăn nhanh xuống. Thật phi thường thay! Có hai tảng đá lớn hơn gấp bội đồng nghiêng đầu chụm lại, ngăn chặn tảng đá kia làm vỡ ra một mảnh nhỏ văng trúng nhằm bàn chân của Đức Phật làm cho bàn chân Ngài bầm máu và sưng lên.

Đức Phật quở trách Tỳ khưu Devadatta:

- Này Devadatta, con người vô dụng! Con có ác tâm muốn giết Như Lai, nhưng mà đối với Như Lai chỉ bị bầm máu mà thôi, như vậy, con đã tạo ác trọng nghiệp lớn rồi!

Đức Phật gọi chư Tỳ khưu dạy rằng:

- Này chư Tỳ khưu, Devadatta đã phạm tội, có ác tâm muốn giết Như Lai, nhưng mà không thể giết Như Lai được, chỉ làm bầm máu ở bàn chân của Như Lai. Như vậy, lần đầu tiên Tỳ khưu Devadatta đã phạm trọng tội lớn là làm bầm máu bàn chân (lohituppàdaka) của Như Lai thuộc ngũ vô gián nghiệp.

Vết thương của Đức Phật, nhờ vị lương y Jìvaka tận tâm cứu chữa, mổ xẻ lấy máu bầm ra và thoa thuốc nên không bao lâu, bàn chân của Ngài đã bình phục.

Chư Tỳ khưu được biết Tỳ khưu Devadatta có ác tâm muốn giết Đức Thế Tôn, vì vậy, chư Tỳ khưu chia từng nhóm canh gác bảo vệ Đức Phật, có nhóm học kinh, tụng kinh; có nhóm đi kinh hành chung quanh Gandhakuti nơi Đức Phật đang ngự. Đức Thế Tôn nghe tiếng tụng kinh bèn hỏi Đại Đức Ànanda, Đại Đức Ànanda bạch với Đức Thế Tôn là chư Tỳ khưu chia thành từng nhóm canh gác, bảo vệ Đức Thế Tôn, không để Tỳ khưu Devadatta đến làm hại Ngài.

Đức Phật bèn dạy Đại Đức Ànanda gọi chư Tỳ khưu mà dạy rằng:

"Atthànametam Bhikkhave anavakàso, yam parùpakkamena Tathàgatam jìvità voropeyya.

Anupakkamena Bhikkhave Tathàgatà parinibbàyanti...".

"Này chư Tỳ khưu, điều chẳng bao giờ xảy ra là việc giết hại Đức Phật do sự cố gắng của người khác. Này chư Tỳ khưu, chư Phật tịch diệt Niết Bàn hoàn toàn không phải do sự cố gắng của một ai cả. Này chư Tỳ khưu, các con nên trở về chỗ ở của mình. Không một ai có thể làm hại được Như Lai. Các con chớ bận tâm bảo vệ sanh mạng của Như Lai..." (Vinayapitaka, Cùlavagga).

CẢM THẮNG VOI NÀLÀGIRI

Đức Thế Tôn đã bình phục như thường, một hôm Ngài cùng chư Tăng đi vào thành Ràjagaha để khất thực. Tỳ khưu Devadatta chăm chú nhìn Đức Phật có đầy đủ tướng tốt và vẻ đẹp trang nghiêm, nghĩ rằng: "Phần đông người ta nhìn thấy Sa môn Gotama như vậy, thì phát sanh đức tin trong sạch và lòng tôn kính, lại còn có Phật lực phi thường, cho nên không một người nào có đủ can đảm đến gần để giết hại Sa môn Gotama được. Họa may chỉ có loài súc sanh không biết gì về Ân Đức Phật mới có thể hại Sa môn Gotama được mà thôi. Vậy ta nên dùng voi Nàlàgiri hung dữ của Đức vua Ajàtasattu kia để giết hại Sa môn Gotama".

Tỳ khưu Devadatta đến gặp vua Ajàtasattu trình tâu âm mưu dùng voi Nàlàgiri hung dữ để sát hại Đức Phật, được Đức vua chấp thuận và truyền lệnh gọi quản tượng đến bảo rằng:

- Ngươi hãy nghe theo lệnh của thầy Devadatta, ngày mai cho voi Nàlàgiri uống rượu say rồi thả ra theo đường nào mà Sa môn Gotama đi vào thành để khất thực.

- Ngày thường, ngươi cho hung tượng Nàlàgiri uống bao nhiêu hũ rượu? - Tỳ khưu Devadatta hỏi.

- Tám hũ, thưa Ngài - Quản tượng thưa.

Tỳ khưu Devadatta ra lệnh:

- Vậy ngày mai, ngươi phải cho hung tượng Nàlàgiri uống 16 hũ rượu, say điên cuồng rồi thả ra theo con đường mà Sa môn Gotama đi vào thành để khất thực, để nó chạy thẳng đến giết chết Sa môn Gotama.

Quản tượng chỉ còn biết tuân lệnh mà thôi.

Vua Ajàtasattu truyền lệnh các quan trong kinh thành thông báo cho dân chúng trong thành biết. "Vào ngày mai, quản tượng sẽ thả voi Nàlàgiri hung dữ ra đường, vậy toàn thể dân chúng trong thành hãy làm xong công việc từ sáng sớm rồi trở về nhà đóng cửa ở trong nhà, cấm không được ai đi lại ở ngoài đường".

Dân chúng trong thành biết tin Tỳ khưu Devadatta âm mưu dùng voi Nàlàgiri hung dữ để giết Đức Phật và đã được vua Ajàtasattu chấp thuận. Vì vậy, những người cận sự nam, cận sự nữ có đức tin trong sạch nơi Tam bảo dẫn nhau đến chùa Veluvana bạch với Đức Thế Tôn rằng:

- Kính bạch Đức Thế Tôn, sáng ngày mai, Tỳ khưu Devadatta âm mưu dùng voi Nàlàgiri hung dữ để giết hại Ngài, vua Ajàtasattu đã chấp thuận. Như vậy, sáng ngày mai, kính xin Đức Thế Tôn cùng chư Tỳ khưu Tăng không nên đi vào thành khất thực, kính xin Đức Thế Tôn cho phép chúng con được mang vật thực đến chùa để cúng dường Đức Thế Tôn cùng chư Tỳ khưu Tăng.

Đức Thế Tôn không chấp thuận hoàn toàn lời thỉnh cầu của dân chúng trong thành Ràjagaha, Ngài dạy rằng:

- Ngày mai, Như Lai sẽ cảm thắng voi Nàlàgiri, đồng thời cảm hoá được một số nhóm ngoại đạo. Vì vậy, Như Lai cùng chư Tỳ khưu Tăng đông đảo sẽ đi vào thành Ràjagaha. Sau khi cảm thắng voi Nàlàgiri xong, Như Lai cùng chư Tỳ khưu Tăng sẽ ra khỏi thành trở về chùa Veluvana, khi ấy các con đem vật thực đến chùa dâng cúng chư Tỳ khưu Tăng có Như Lai chủ trì.

Nhóm cận sự nam - nữ hiểu ý Đức Phật, đảnh lễ Ngài trở về với lòng tôn kính Đức Phật vô hạn.

Như thường ngày, ban đêm vào cuối canh, Đức Thế Tôn nhập đại bi định, xả định quán xét chúng sinh có duyên lành đặc biệt nên tế độ. Bằng Phật nhãn, Ngài nhìn thấy rõ trong lúc cảm thắng voi Nàlàgiri bằng tâm từ, đồng thời có 84.000 chúng sinh có duyên lành chứng đắc Thánh Đạo, Thánh Quả tuỳ theo ba la mật của mình.

Vào sáng hôm ấy, Đức Phật gọi Đại Đức Ànanda dạy rằng:

- Này Ànanda, con nên thông báo cho tất cả chư Tỳ khưu ở 18 đại tự viện, sáng nay cùng đi với Như Lai vào thành Ràjagaha.

Sáng hôm ấy, trong thành Ràjagaha có số cận sự nam - nữ bảo nhau rằng: "Hôm nay chúng ta sẽ tận mặt nhìn thấy Đức Phật cảm thắng được voi hung ác Nàlàgiri một cách phi thường", nên họ leo lên tầng nhà cao hay mái nhà để quan sát cho rõ.

Còn một số dân chúng thuộc nhiều môn phái ngoại đạo, họ bảo nhau rằng: "Voi Nàlàgiri rất hung ác, có sức mạnh phi thường, không biết gì về Ân Đức Phật, hôm nay chúng ta được tận mắt nhìn thấy thân thể của Sa môn Gotama bị chà nát dưới bàn chân của voi hung ác Nàlàgiri...", nên họ cũng leo lên tầng nhà cao hay mái nhà để quan sát.

Khi ấy, nhóm quản tượng cho voi Nàlàgiri uống 16 hũ rượu theo lệnh của Tỳ khưu Devadatta. Voi Nàlàgiri sáng nay say như điên, được thả ra trên con đường ngược chiều với lộ trình của Đức Phật cùng chư Tỳ khưu Tăng đang đi vào thành Ràjàgaha. Voi Nàlàgiri nhìn thấy Đức Thế Tôn từ xa ngự đến liền cong vòi, quạt hai lỗ tai, cong đuôi chạy thẳng đến nơi Đức Thế Tôn ví như quả núi nghiêng đổ về phía Ngài.

Chư Tỳ khưu thấy vậy bèn bạch với Đức Thế Tôn:

- Kính bạch Đức Thế Tôn, voi Nàlàgiri rất hung ác, sát nhân, đang say như điên chạy đến đây, chúng con kính thỉnh Đức Thế Tôn trở lại. Bạch Ngài.

Đức Thế Tôn dạy chư Tỳ khưu:

- Này chư Tỳ khưu, các con đừng có sợ hãi, không có một ai có thể làm hại Như Lai được, Như Lai sẽ cảm thắng voi Nàlàgiri này.

Lúc ấy, Đại Đức Sàriputta liền bạch Đức Thế Tôn rằng:

- Kính bạch Đức Thế Tôn, thông thường có việc gì xảy đến với phụ thân, phận sự ấy thuộc về đứa con trưởng. Kính bạch Đức Từ Phụ, cho phép con cảm hoá voi Nàlàgiri ấy.

Đức Thế Tôn bảo với Đại Đức Sàriputta rằng:

- Này Sàriputta con, oai lực của bậc Thánh Thanh Văn kém oai lực của Đức Phật, vậy con hãy để việc này cho Như Lai.

Sau đó, 80 vị Thánh Thanh Văn đại đệ tử tuần tự xin phép Đức Phật cảm hoá voi Nàlàgiri, nhưng Đức Thế Tôn không chấp thuận vị nào cả.

Lúc ấy, Đại Đức Ànanda không thể nào đứng yên nhìn sự nguy hiểm đến tánh mạng của Đức Phật, vì quá kính yêu Ngài, Đại Đức nghĩ rằng: Voi Nàlàgiri hung ác này hãy giết chết ta trước, ta quyết hy sinh tánh mạng thay cho Đức Phật, nên Đại Đức vội vàng bước ra đứng chắn trước mặt Đức Phật.

Đức Thế Tôn dạy bảo rằng:

- Này Ànanda, con hãy tránh sang nơi khác, không được đứng trước Như Lai.

Đại Đức Ànanda vẫn không chịu tránh, bèn bạch với Đức Thế Tôn rằng:

- Voi Nàlàgiri rất hung ác, nó giết chết con trước khi đụng đến Đức Thế Tôn.

Đức Thế Tôn bảo Đại Đức Ànanda tránh sang nơi khác đến ba lần như vậy mà Đại Đức vẫn đứng yên. Do vậy, Ngài phải dùng đến thần thông bắt buộc Đại Đức Ànanda tránh sang nơi khác, Đức Thế Tôn đứng trước chư Tỳ khưu Tăng.

Bỗng nhiên, có một người đàn bà đang ẵm con, nhìn thấy voi Nàlàgiri đang lao tới với tốc độ kinh khủng, bà quá đỗi khiếp đảm nên để đứa con mình xuống đường tìm nơi thoát thân, hung tượng Nàlàgiri đuổi theo người đàn bà, nhưng không thấy bèn trở lại đưá trẻ đang nằm gần Đức Phật, đứa bé thấy voi sợ quá khóc lớn, Đức Phật niệm rải tâm từ đến voi Nàlàgiri rồi gọi bằng một giọng phạm âm ngọt ngào trìu mến:

- Này Nàlàgiri con yêu quý, người ta cho con uống 16 hũ rượu mạnh làm cho con say điên cuồng, họ không cố ý giết hại người khác, thật ra họ cố ý nhờ con giết hại Như Lai, con hãy đến đây với Như Lai, Nàlàgiri yêu qúy!

Voi Nàlàgiri hung ác nghe giọng phạm âm ngọt ngào trìu mến của Đức Phật, liền mở mắt, ngẩng đầu, nhìn thấy kim thân Đức Phật toả ánh từ bi, cơn say điên cuồng tan biến mất, tâm thức tỉnh. Do nhờ oai lực của Đức Phật, voi Nàlàgiri hạ vòi xuống, ngoan ngoãn đi lần đến quỳ một cách cung kính dưới bàn chân Đức Phật.

Khi ấy, Đức Thế Tôn dạy voi Nàlàgiri rằng:

Này Nàlàgiri, con yêu quý,
Con là voi thuộc hàng súc sanh,
Như Lai là Đức Phật, gọi là voi chúa,
Kể từ nay con không nên hung ác sát nhân nữa.
Con nên có tâm từ đối với tất cả chúng sinh.

Đức Thế Tôn rải tâm từ đến voi Nàlàgiri, rồi đưa bàn tay phải vuốt trên đầu voi và khuyên dạy rằng:

"Này Nàlàgiri, con yêu quý,
Con là voi con có vòi,

Chớ nên hại voi chúa cao thượng là Như Lai.
Vì sự làm hại voi chúa cao thượng,
Là nhân đem lại sự đau khổ cho con,
Người nào làm hại voi chúa cao thượng,
Người ấy không được tái sanh cảnh giới an lạc.

Này Nàlàgiri con yêu quý,
Con chớ nên say mê, không nên dễ duôi nữa,
Vì sự dễ duôi quên mình, tạo nên ác nghiệp,
Phải sa vào cảnh ác đạo, chịu khổ lâu dài,
Con nên tạo thiện nghiệp, để được sự an lạc,
Được tái sanh thiện cảnh, hưởng an lạc lâu dài".

Đức Phật thuyết pháp tế độ voi Nàlàgiri, toàn thân tâm của voi Nàlàgiri phát sanh hỷ lạc chưa từng có. Nếu không phải là loài súc sanh, sau khi nghe pháp xong, chắc chắn nó đã chứng đắc Thánh Đạo, Thánh Quả (nhưng vì là loài súc sanh nên không thể chứng đắc).

Dân chúng trong thành Ràjàgaha tận mắt nhìn thấy Đức Phật cảm thắng hung tượng Nàlàgiri trở nên hiền lành một cách phi thường, kỳ diệu như thế, cho nên họ vô cùng hoan hỷ vỗ tay reo hò vang dội, họ ném những đồ trang sức vòng vàng châu báu xuống thân mình voi Nàlàgiri thành đống. Từ đó, voi Nàlàgiri có tên là voi Dhanapàlaka (voi giữ gìn của cải). Đức Phật cho hiền tượng Dhanapàlaka thọ ngũ giới, hiền tượng nằm mọp xuống lấy vòi hút bụi ở bàn chân của Đức Phật, rồi phun lên đầu của mình tỏ lòng tôn kính Đức Phật.

Voi Dhanapàlaka đi lùi ra xa một đoạn đường, cúi đảnh lễ Đức Phật rồi trở về chỗ ở của mình; kể từ hôm ấy voi Dhanapàlaka rất hiền lành dễ mến. Đức Phật cảm thắng hung tượng Nàlàgiri rồi Ngài chú nguyện rằng: "của cải người chủ nào được hoàn lại cho người chủ ấy", tức thì tất cả của cải đều trở lại người chủ.

Sáng hôm ấy, Đức Phật đã cảm thắng được voi Nàlàgiri xong và nhân cơ hội này, Ngài thuyết pháp tế độ chúng sinh gồm có 84.000 chứng đắc Thánh Đạo, Thánh Quả tùy theo ba la mật của mình, Đức Phật không đi vào thành Ràjàgaha để khất thực, mà Ngài dẫn đầu đoàn Tỳ khưu Tăng đông đảo ra khỏi thành ngự về chùa Veluvana.

Dân chúng kinh thành Ràjàgaha vui mừng, cùng nhau mang theo những vật thực ngon lành đến chùa Veluvana để cúng dường chư Tỳ khưu Tăng, có Đức Thế Tôn chủ trì với tâm vô cùng hoan hỷ và tôn kính. Họ được nhìn thấy Đức Phật đã cảm thắng hung tượng Nàlàgiri trở nên hiền tượng có ngũ giới, kể từ nay về sau voi Nàlàgiri không còn đáng kinh sợ nữa, mà trở nên đáng yêu quý hơn, cho nên họ cùng tán dương ca tụng Đức Phật bằng bài kệ:

"Người ta dạy voi hay ngựa,
Bằng móc sắt, bằng roi mây
Nhưng thật phi thường thay!
Đức Thế Tôn bậc đại bi,
Cảm hoá voi Nàlàgiri hung dữ,
Chẳng cần dùng đến móc sắt,
Và cũng không có roi mây!".

-ooOoo-

Chú thích:

* Giai đoạn cuối cuộc đời Tỳ khưu Devadatta

Tỳ khưu Devadatta bị mọi người chê trách thậm tệ về những hành động ác mà y đã tạo, cho nên vua Ajàtasattu không còn tin nơi y nữa, ngưng hộ độ 500 xe vật thực dâng cúng mỗi ngày, còn Tỳ khưu Devadatta đi khất thực, dân chúng không để bát nữa, những quyền lực và lợi lộc bị suy thoái hoàn toàn.

Cuối cuộc đời của Tỳ khưu Devadatta bị bệnh nặng, muốn đến hầu đảnh lễ Đức Phật sám hối trước khi chết. Devadatta nhờ những người học trò khiêng giường đến chùa Jetavana, nghỉ bên hồ nước gần chùa để tắm rửa cho y. Khi Tỳ khưu Devadatta từ trên giường vừa chạm đôi chân xuống đất, mặt đất nẻ ra rút y xuống. Khi còn lại hai bàn tay, y chấp tay đưa lên cao: "Xin quy y nương nhờ nơi Đức Phật" rồi chìm sâu trong lòng đất.

Tỳ khưu Devadatta sau khi chết, do năng lực của ác trọng nghiệp cho quả tái sanh vào đại địa ngục Avìci, chịu quả khổ do ác nghiệp mà y đã tạo; khi mãn ác nghiệp rồi, đến kiếp vị lai sau này được trở lại tái sanh làm người.

Đức Phật thọ ký rằng: từ kiếp trái đất này về sau, trải qua hơn một trăm ngàn đại kiếp trái đất nữa, kiếp vị lai của Tỳ khưu Devadatta sẽ chứng đắc thành Đức Phật Độc Giác có danh hiệu Atthissara.

* Cuộc đời Đức vua Ajàtasattu

Đức vua Ajàtasattu thân cận với Tỳ khưu Devadatta phạm phải trọng tội giết cha, khi Đức vua nghe tin Tỳ khưu Devadatta bị đất rút, nên phát sanh tâm sợ hãi kinh hồn; nhờ ngự y Jìvaka dẫn đến hầu Đức Phật xin sám hối tội lỗi của mình đã tạo. Đức Phật thuyết pháp tế độ Đức vua; nếu Đức vua không phạm trọng tội giết cha, thì khi nghe Đức Phật thuyết pháp xong, có thể chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo - Nhập Lưu Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Nhập Lưu; nhưng vì đã phạm vô gián nghiệp chắc chắn phải sa vào địa ngục, cho nên Đức vua không thể chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả nào; Đức vua chỉ phát sanh đức tin trong sạch, xin quy nơi Tam bảo, trở thành người cận sự nam tận tâm lo hộ độ Tam bảo.

Sau khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn được 3 tháng 4 ngày chính Đức vua lo hộ độ chư Thánh Tăng trong kỳ kết tập Tam tạng lần thứ nhất tại động Sattapanni gần thành Ràjagaha gồm có 500 bậc Thánh Arahán, do Ngài Đại Đức Trưởng lão Mahàkassapa chủ trì. Mặc dầu phước thiện lớn lao như vậy, Đức vua cũng không tránh khỏi sa vào cảnh địa ngục. Đáng lẽ Đức vua sau khi chết, do năng lực của ác trọng nghiệp cho quả tái sanh vào đại địa ngục Avìci, song nhờ phước thiện ấy, nên chỉ tái sanh vào địa ngục Lohakumbhì suốt 60.000 năm, đến khi mãn ác nghiệp, được trở lại tái sanh làm người, kiếp vị lai sau này sẽ chứng đắc thành bậc Độc Giác Phật có danh hiệu Vijitàvì.




Trình bày:Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/02/2015(Xem: 4679)
Một trong tôn giáo cổ xưa Có thầy tu nọ rất ưa tế thần Tuy ông nổi tiếng xa gần Nhưng mà mê muội tâm thần nhiều thay. Một hôm ông chọn dê này Cho rằng thích hợp, giết ngay tế thần Nghĩ suy lầm lạc vô ngần:
25/01/2015(Xem: 6600)
Tác phẩm Một Đóa Sen, được diễn nói về vận hành tầm sư học đạo của Sư bà Thích Nữ Diệu Từ, thật là gian truân trăm bề, được thấy từ khi mới vào “Thiền Môn Ni Tự” ở các cấp Khu Ô Sa Di, Hình Đồng Sa Di, ứng Pháp Sa Di và Tỳ Kheo Ni ở tuổi thanh niên mười (10) hạ lạp rồi, mà vẫn còn gian nan trên bước đường hành hoạt đạo Pháp. Nhưng Sư bà vẫn định tâm, nhẫn nhục , tinh tấn Ba la mật mà tiến bước lên ngôi vị Tăng Tài PGVN ở hai lãnh vực văn hóa quốc gia và Phật Giáo Việt Nam một cách khoa bảng. Nếu không nói rằng; tác phẩm “Một Đóa Sen và Pháp thân” của Sư bà Diệu Từ, là cái gương soi cho giới Ni PGVN VN hiện tại và hậu lai noi theo…
24/01/2015(Xem: 4838)
Mỗi sáng sớm khi sương còn mù mịt trên sông, chiếc thuyền con của lão già đã là đà rẽ nước, hướng về bờ – lúc thì bờ đông, lúc thì bờ tây, nơi những ngôi nhà tranh và những chiếc ghe nhỏ tụ tập. Mái chèo khua nhè nhẹ như thể sợ động giấc ngủ của thế nhân. Chẳng ai biết chắc lão có gia đình, nhà cửa ở đâu hay không. Nhưng người ta có thể đoán chiếc thuyền con ấy chính là nhà của lão, vì lão phơi thuốc, xắc thuốc, nấu thuốc ngay trên đó. Trên thuyền không còn ai khác. Ban đêm, thuyền của lão neo ở đâu không ai biết, nhưng sáng sớm thì thấy lù lù xuất hiện trên sông hoặc nơi bờ cát. Lão già đến và đi, một mình. Mỗi ngày xách cái túi nhỏ rời thuyền, thường là đi hái thuốc trên núi, ven rừng, bờ suối, có khi vào làng chữa bệnh cho bá tánh rồi ghé chợ mua vài thứ lĩnh kĩnh.
21/01/2015(Xem: 10087)
1. Chân như đạo Phật rất mầu Tâm trung chữ Hiếu niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân Nhân là cứu độ trầm luân muôn loài. 5. Thần thông nghìn mắt nghìn tay Cũng trong một điểm linh đài hóa ra,
16/01/2015(Xem: 3621)
Sau 30-4-75, tất cả giáo chức chúng tôi đều phải đi học tập chính trị trong suốt 3 tháng hè mà họ gọi nôm na là "bồi dưỡng nghiệp vụ". Một buổi chiều sau mấy ngày "bồi dưỡng", tôi đạp xe lang thang qua vùng Trương minh Giảng, tình cờ gặp Báu - một người học trò năm xưa, rất xưa, đang ngơ ngẩn đứng trước cửa nhà. Dừng xe đạp, tôi chào: - Báu hả? Phải em là Trương thị Báu không? Có nhớ ra cô không? Báu giương mắt nhìn tôi, nhìn đi nhìn lại rồi nghiêng đầu lại nhìn...Em không nhớ nổi... Tôi đã thoáng thấy được một tâm thần bất thường qua thần sắc cũng như qua đôi mắt trống rỗng vô hồn!
16/01/2015(Xem: 4823)
Năm 1954 ông Thiện khăn gói đùm đề đưa mẹ, vợ và hai đứa con gái xuống con tàu há mồm vào Nam.Trên bờ, Thụ, người em trai của ông còn đưa tay vẫy vẫy. Đêm hôm qua, ông và người em trai bàn rất nhiều về chuyến ra đi này.Người em nói: - Đất nước đã hòa bình, độc lập, anh nên ở lại, dù gì cũng là nơi chôn nhau cắt rốn.Vào Nam xứ lạ quê người, chân ướt chân ráo trăm bề khổ sở... Ông Thiện đã trả lời em:
15/01/2015(Xem: 5053)
Trong cả thành phố này, anh chị chỉ có tôi là chỗ thân nhất, vừa là thầy vừa là bạn. Buổi sáng anh gọi phone bảo trưa nay đến đón tôi về nhà dùng cơm cho vui. Hôm nay là sinh nhật của thằng Alexander con một của anh chị.
14/01/2015(Xem: 7517)
Tiếng Hồng chung Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang nói riêng và các chùa trong thành phố Nha trang nói chung, sớm khuya ai cũng có thể nghe được, nhưng nghe để “Trí tuệ lớn” và “Bồ-đề sinh” thì tùy theo “phiền não” của đối tượng nghe có vơi nhẹ hay không? Riêng với nhà văn Võ Hồng, qua tác phẩm “Tiếng chuông triêu mộ” cho thấy Trí tuệ và Bồ đề của ông sanh trưởng tốt. Nhưng nhân duyên như thế cũng chưa đủ, ông là giáo sư của PHV, của trường Bồ Đề, là thiện tri thức của các bậc cao Tăng ở đồi Đông và đồi Tây non Trại Thủy. Có thế mới có truyện ngắn “Cây khế lưng đồi”, có tùy bút “Con đường thanh tịnh”. Thưa thầy Võ Hồng, chừng ấy đủ rồi, đủ cho PHV đi vào lịch sử văn học, đủ cho 100 năm sau, 1000 năm sau hay nhiều hơn thế nữa, nhìn thấy PHV uy nghi như một Linh Thứu thời Phật và cũng cho thấy các bậc cao Tăng Miền Trung nói riêng xứng đáng là những Sứ giả Như Lai đầy trách nhiệm đối với sự trường tồn của Phật giáo Việt Nam.
09/01/2015(Xem: 4222)
Tháng 10 năm 1962, TT Chủ Tịch Ủy Ban Liên Phái… nhờ Tôi đi công tác Vũng Tàu, Tôi đi chuyến xe đò lúc 8g30 sáng, xe chạy vừa khỏi hãng xi-man Hà Tiên, thì có 3 người đón xe. Anh tài xế nói với tôi : “Thầy vui lòng xuống hàng ghế phía dưới để cho “mấy cha”ngồi, vui nghen Thầy”! Tôi lách mình qua khoản trống thì có 2 vị đưa tay đón và đở nhường chỗ ngồi còn nói lớn: “Ngộ ha, cha quí hơn Thầy “! Tôi sợ gây chuyện không vui, nên đưa tay và lắc đầu xin yên lặng. Vì đương thời bấy giờ bóng dáng của các áo đen có nhiều sát khí thế lực! Nhưng, Mộc dục tịnh, nhi phong bất đình 木欲淨而風不亭.Xe chạy êm ả, gió lùa mát rượi.
26/12/2014(Xem: 13449)
Phât tử Chơn Huy ở Hoa Kỳ về có đem theo tập tự truyện dày của Tỳ Kheo Yogavacara Rahula. Cô nói truyện rất hay, khuyên tôi đọc và nhờ tôi dịch ra Việt ngữ để phổ biến trong giới Phật tử Việt Nam. Câu chuyện rất lý thú, nói về đời của một chàng trai Mỹ đi từ chỗ lang bạt giang hồ đến thiền môn. Truyện tựa đề "ONE NIGHT'S SHELTER (From Home to Homelessness)--The Autobiography of an American Buddhist Monk". Tôi đọc đi rồi muốn đọc lại để thấu đáo chi tiết trung thực của một đoạn đời, đời Thầy Yogavacara Rahula. Nhưng thay vì đọc lại, tôi quyết định dịch vì biết rằng dịch thuật là phương pháp hay nhứt để hiểu tác giả một cách trọn vẹn. Vả lại, nếu dịch được ra tiếng Việt, nhiều Phật tử Việt Nam sẽ có cơ duyên chia sẻ kinh nghiệm quý báu của Thầy Rahula hơn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]